Theo sách "Kể chuyện chốn hậu cung", lịch sử phong kiến Việt Nam từng xuất hiện một người phụ nữ có số phận đặc biệt tên Lê Thị Thanh, tức Mẫn Lệ phi (chưa rõ năm sinh, năm mất, nhiều tài liệu không ghi tên, chỉ ghi bà phi họ Lê). Theo đó, từ thân phận nô tỳ, bà này đã bất ngờ trở thành cung phi nước Việt.Theo chính sử Mẫn Lệ phi Lê Thị Thanh là vợ vua Lê Uy Mục, hoàng đế thứ 8 của nhà Hậu Lê, làm vua từ năm 1504-1509.Bà Mẫn Lệ phi vốn người ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, sau chuyển vào sinh sống ở Quảng Trị. Do cha mắc tội nên bà bị sung làm nô tỳ trong cung phủ. Tại đây, trong một lần giáp mặt, hoàng tử Lê Tuấn đã rất yêu quý. Sau khi lên ngôi, Lê Uy Mục đã phong bà làm phi tần, rất sủng ái.Công lao to lớn của Mẫn Lệ phi được hậu thế ghi nhận là khai khẩn đất đai. Sau khi vào cung, anh và em trai bà cũng được ban tước hiệu. Từ đây, anh em bà đã chiêu mộ dân chúng khai phá thêm những vùng đất hoang, lập nên nhiều làng xã, kéo dài từ vùng Sen Thủy (Quảng Bình) đến vùng Hạ Bạn (Gio Linh, Quảng Trị ngày nay).Theo sách "Ô Châu cận lục", nhờ gia đình có công lao to lớn trong việc khai khẩn lập ấp, nên sau khi qua đời, người dân nhớ tới công lao của anh em bà, đã lập miếu thờ ở nhiều nơi. Trải qua hàng thế kỷ với bao biến động của lịch sử, tất cả gần như bị tàn phá, chỉ còn lại ngôi miếu chính thờ Mẫn Lệ phi tại làng Sa Trung của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.Hàng năm, ngày 27/3 Âm lịch, đông đảo người dân lân cận tế lễ để tưởng nhớ bà với những câu ca dao lưu truyền như: “Đi đâu cũng nhớ tháng ba / Hai bảy giỗ bà, tảo mộ vui xuân / Các nơi nô nức xa gần / Vĩnh Trung, Vĩnh Thủy, Quảng Bình về đây”.
Theo sách "Kể chuyện chốn hậu cung", lịch sử phong kiến Việt Nam từng xuất hiện một người phụ nữ có số phận đặc biệt tên Lê Thị Thanh, tức Mẫn Lệ phi (chưa rõ năm sinh, năm mất, nhiều tài liệu không ghi tên, chỉ ghi bà phi họ Lê). Theo đó, từ thân phận nô tỳ, bà này đã bất ngờ trở thành cung phi nước Việt.
Theo chính sử Mẫn Lệ phi Lê Thị Thanh là vợ vua Lê Uy Mục, hoàng đế thứ 8 của nhà Hậu Lê, làm vua từ năm 1504-1509.
Bà Mẫn Lệ phi vốn người ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, sau chuyển vào sinh sống ở Quảng Trị. Do cha mắc tội nên bà bị sung làm nô tỳ trong cung phủ. Tại đây, trong một lần giáp mặt, hoàng tử Lê Tuấn đã rất yêu quý. Sau khi lên ngôi, Lê Uy Mục đã phong bà làm phi tần, rất sủng ái.
Công lao to lớn của Mẫn Lệ phi được hậu thế ghi nhận là khai khẩn đất đai. Sau khi vào cung, anh và em trai bà cũng được ban tước hiệu. Từ đây, anh em bà đã chiêu mộ dân chúng khai phá thêm những vùng đất hoang, lập nên nhiều làng xã, kéo dài từ vùng Sen Thủy (Quảng Bình) đến vùng Hạ Bạn (Gio Linh, Quảng Trị ngày nay).
Theo sách "Ô Châu cận lục", nhờ gia đình có công lao to lớn trong việc khai khẩn lập ấp, nên sau khi qua đời, người dân nhớ tới công lao của anh em bà, đã lập miếu thờ ở nhiều nơi. Trải qua hàng thế kỷ với bao biến động của lịch sử, tất cả gần như bị tàn phá, chỉ còn lại ngôi miếu chính thờ Mẫn Lệ phi tại làng Sa Trung của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Hàng năm, ngày 27/3 Âm lịch, đông đảo người dân lân cận tế lễ để tưởng nhớ bà với những câu ca dao lưu truyền như: “Đi đâu cũng nhớ tháng ba / Hai bảy giỗ bà, tảo mộ vui xuân / Các nơi nô nức xa gần / Vĩnh Trung, Vĩnh Thủy, Quảng Bình về đây”.