Trong những năm gần đây, khi mọi người ngày càng chú ý đến sức khỏe đường tiêu hóa, vi khuẩn Helicobacter pylori đã dần lọt vào tầm ngắm của chúng ta, ngày càng có nhiều người đến khám ngoại trú để kiểm tra xem có nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori hay không. Nhưng Helicobacter pylori là gì? Tác hại của nó là gì? Làm thế nào để phòng ngừa và điều trị?
Nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori rất nguy hại, trường hợp nặng có thể gây ung thư
Helicobacter pylori là một loại vi khuẩn gram âm, có tính nhạy cảm chung với quần thể. Helicobacter pylori có thể xâm nhập vào dạ dày của con người, bám vào niêm mạc dạ dày và khoảng gian bào, và tạo ra một lớp bảo vệ xung quanh vi khuẩn thông qua quá trình thủy phân urease của urê để tạo ra amoniac chống lại tác dụng tiêu diệt của axit dịch vị. Nhiễm Helicobacter pylori có thể gây bệnh. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 25% -30% những người bị nhiễm Helicobacter pylori sẽ mắc các bệnh đường tiêu hóa ở các mức độ khác nhau, chẳng hạn như ăn không tiêu, viêm dạ dày mãn tính, loét dạ dày tá tràng,... và một số bệnh nhân cũng sẽ phát triển các khối u ác tính của dạ dày (ung thư dạ dày),...
Ngoài các bệnh về đường tiêu hóa, nhiễm Helicobacter pylori còn liên quan mật thiết đến thiếu máu do thiếu sắt, ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, các bệnh tự miễn, các bệnh tim mạch và các bệnh mạch máu não.
Cẩn thận xung quanh bữa ăn, Helicobacter pylori lây truyền chủ yếu qua đường miệng
Số lượng lớn người nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori ở Việt Nam chủ yếu do thói quen ăn uống truyền thống quanh bữa ăn. Khi người thân, bạn bè quây quần ăn tối, mọi người quây quần chia sẻ đồ ăn, thức ăn chấm chung, gắp chung, điều này tạo điều kiện cho vi khuẩn Helicobacter pylori lây nhiễm. Đồng thời, thói quen nhai thức ăn, hôn hít, vệ sinh kém,… cũng là những yếu tố rất quan trọng dẫn đến nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori.
Để tránh bị nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori, hãy chú ý bốn điểm sau khi ăn cùng nhau:
(1) Thúc đẩy hệ thống chia sẻ bữa ăn và nâng cao nhận thức về việc sử dụng đũa và thìa của cộng đồng. Tránh nhai và cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ăn.
(2) Thay đổi thói quen ăn uống không tốt, giảm hút thuốc lá, ít uống rượu bia, ít ăn các thức ăn cay, lạnh dễ kích thích niêm mạc dạ dày.
(3) Thay đổi thói quen vệ sinh, nên thay kem đánh răng và bàn chải đánh răng thường xuyên, rửa tay trước và sau bữa ăn.
(4) Tránh ăn thức ăn bị ô nhiễm và uống nước bị ô nhiễm.
Nhiễm Helicobacter pylori, có cần chữa khỏi không?
Nhiễm Helicobacter pylori có thể được loại trừ. Việc điều trị vi khuẩn Helicobacter pylori hiện nay thường được áp dụng theo phương pháp “tứ phương” (tứ phương: uống cùng lúc 4 loại thuốc) gồm hai loại thuốc kháng sinh, thường một liệu trình từ 10-14 ngày. Bệnh nhân có thể được kiểm tra lại xem có hiệu quả tiệt trừ sau ít nhất một tháng ngừng thuốc.
Nhiễm Helicobacter pylori có hại hơn, nhưng có phải tất cả mọi người đều cần điều trị tiệt trừ không?
Trẻ em: Vì trẻ em đang trong thời kỳ tăng trưởng và phát triển nên chúng có ít lựa chọn thuốc kháng sinh hơn và khả năng chịu đựng các phản ứng có hại của thuốc thấp và một số trẻ có thể tự tiêu diệt vi khuẩn Helicobacter pylori sau khi bị nhiễm Helicobacter pylori. Cần phải đánh giá về cơ sở của rủi ro và lợi ích.
Tuy nhiên, đối với một số trẻ mắc các bệnh sau đây, khuyến cáo tiệt trừ nếu khi khám phát hiện nhiễm Helicobacter pylori: trẻ bị loét dạ dày tá tràng, u lympho MALT dạ dày có nhiễm Helicobacter pylori; viêm dạ dày mãn tính, tiền sử gia đình bị ung thư dạ dày, không rõ nguyên nhân, thiếu máu do thiếu sắt, có kế hoạch sử dụng lâu dài thuốc chống viêm không steroid (bao gồm cả aspirin liều thấp), người giám hộ trở lên (từ 12-14 tuổi) trẻ em bị nhiễm H. pylori cần được điều trị dứt điểm có thể được tiệt trừ liệu pháp.
Người cao tuổi: Người cao tuổi thường mắc các bệnh lý tim mạch, mạch máu não, thận và các bệnh toàn thân khác do khả năng dung nạp và tuân thủ điều trị tiệt trừ Helicobacter pylori giảm nên tăng nguy cơ phản ứng có hại với kháng sinh. Hơn nữa, lợi ích tiềm năng của việc tiệt trừ H. pylori trong việc ngăn ngừa ung thư dạ dày giảm dần theo tuổi tác. Do đó, trước khi điều trị tiệt trừ Helicobacter pylori, cần tiến hành đánh giá nguy cơ - lợi ích, và lựa chọn từng cá nhân nên được thực hiện tùy theo việc sử dụng thuốc trước đó của bệnh nhân, đặc điểm sinh lý, bệnh tật và phản ứng có hại của thuốc.
Cuối cùng nhắc nhở mọi người, do vi khuẩn Helicobacter pylori rất dễ lây lan trong gia đình nên nếu không chú ý phòng bệnh sau khi diệt trừ thì vẫn có khả năng tái nhiễm, xác suất nói chung là dưới 5-10%. Vì vậy, các thành viên trong gia đình nên được đồng điều trị.