Ung thư phổi là nguyên nhân gây ra tử vong do bệnh ung thư hàng đầu ở cả nam giới và phụ nữ. Trước khi thuốc lá được sử dụng rộng rãi, ung thư phổi rất hiếm xảy ra. Ngày nay, việc hút thuốc gây ra gần 9 trong số 10 trường hợp tử vong do ung thư phổi, trong khi khí radon, ô nhiễm, và những nơi nhiễm chất hóa học đóng một vai trò nhỏ hơn.
Làm thế nào hút thuốc trở thành nguyên nhân ung thư phổi. Thuốc lá không chỉ có các hóa chất gây ung thư mà chúng còn hóa giải hệ thống phòng vệ tự nhiên của phổi. Đường hô hấp được lót bằng sợi lông nhỏ gọi là lông mao. Những sợi lông bảo vệ phổi bằng cách quét ra độc tố, vi khuẩn và virus. Khói thuốc lá sẽ làm tê liệt các lông mao để chúng không thể làm công việc của mình. Điều này cho phép chất gây ung thư để xâm nhập vào trong phổi. Các triệu chứng ung thư phổi. Ung thư phổi thường không có triệu chứng hoặc dấu hiệu cảnh báo trong giai đoạn đầu. Khi nó tiến triển, các triệu chứng thường không đặc hiệu và có thể bao gồm:
• Ho không dứt
• Đau ngực, đặc biệt là khi hơi thở sâu
• Thở khò khè hoặc khó thở
• Ho ra đờm có máu
• Mệt mỏi Sàng lọc ung thư phổi. Một phương pháp được gọi là quét CT xoắn ốc có thể giúp phát hiện ung thư phổi giai đoạn sớm ở một số người. Tuy nhiên, nó không rõ ràng dù có thể tìm thấy chúng sớm để cứu mạng sống người bệnh. Viện Ung thư quốc gia Mỹ đang đánh giá tính hữu dụng của phương pháp quét CT này. Một nhược điểm là quét CT xoắn ốc cho thấy rất nhiều bất thường vô hại trong phổi, có thể dẫn đến sinh thiết không cần thiết, lo lắng và thậm chí, khiến người bệnh phải trải qua ca phẫu thuật không đáng có.
Chẩn đoán ung thư phổi. Trong hầu hết các trường hợp, ung thư phổi không bị nghi ngờ cho đến khi nó gây ra các triệu chứng như ho mãn tính hoặc thở khò khè. Vào thời điểm đó, bác sĩ có thể sẽ cho bệnh nhận chụp X-quang hoặc xét nghiệm hình ảnh. Hoặc bệnh nhân ho ra đờm cũng có thể yêu cầu thử nghiệm đờm. Nếu một trong những thử nghiệm này cho thấy sự hiện diện của bệnh ung thư, có thể bạn sẽ trải qua sinh thiết. Phương pháp sinh thiết thông thường nhất là dùng ống nội soi phế quản, là một ống nhỏ, mềm, dẻo đưa qua mũi hay miệng sau khi đã gây tê, đi qua khí quản vào phổi. Phương pháp này được sử dụng trên 80% bệnh nhân và 2/3 có kết quả sinh thiết dương tính. Xét nghiệm đờm tìm tế bào ung thư chỉ có 1/3 số ca có kết quả dương tính. Nếu khối u ở rìa phổi hay ở xa phế quản thì nội soi phế quản hay xét nghiệm đờm có thể không phát hiện được. Ung thư phổi được chia làm hai loại chính: ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, tuỳ thuộc vào hình dạng tế bào dưới kính hiển vi. Mỗi loại ung thư phát triển và lan theo những cách khác nhau và được điều trị khác nhau. Ung thư phổi tế bào nhỏ có thể lây lan nhanh hơn tới các bộ phận khác của cơ thể. Nó gắn liền mật thiết với việc sử dụng thuốc lá và hiếm thấy ở người không hút thuốc. Ung thư phổi không tế bào nhỏ phát triển chậm hơn và phổ biến hơn, chiếm gần 90% trong tất cả các bệnh ung thư phổi . Các giai đoạn của ung thư phổi được sử dụng để mô tả hiện trạng khối u của bệnh nhân ung thư lan rộng. Ung thư phổi tế bào nhỏ được chia thành hai giai đoạn: "Giới hạn" có nghĩa là ung thư được giới hạn trong một lá phổi và các hạch bạch huyết gần đó. "Mở rộng" có nghĩa là ung thư đã lan ra hết phổi hoặc bộ phận ngoài khác. Ung thư phổi không tế bào nhỏ có từ 1 - 4 giai đoạn, tùy thuộc vào khối u đã lan rộng bao xa. Thời gian sống của bệnh nhân sau phẫu thuật. Khoảng 50% bệnh nhân được chữa khỏi (sống được 5 năm) bằng phẫu thuật. Thường thời gian sống còn khoảng 1-2 năm với các giai đoạn muộn. Tuy phẫu thuật chỉ kéo dài được một số trường hợp với tỷ lệ 50%, nhưng nếu không tiến hành phẫu thuật thì tỷ lệ sống còn chỉ còn khoảng 5%. Phẫu thuật loại bỏ khối u: Có hiệu quả nhất khi khối u còn nhỏ và chưa có di căn, bệnh nhân có thể trạng tốt để phẫu thuật. 20% bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này. Những bệnh nhân được phẫu thuật lấy toàn bộ khối u có thời gian sống thêm lâu dài. Mục đích của phương pháp này là phá hủy khối u khi nó còn nhỏ (thường có đường kính 6 cm) và không có di căn. Đối với những khối u lớn thì nó làm giảm sự phát triển của khối u. Phương pháp điều trị này kéo dài cuộc sống của bệnh nhân nhưng ít khi chữa khỏi bệnh. Điều trị bằng hóa chất: Có tác dụng tốt ở hầu hết bệnh nhân ung thư phổi loại tế bào nhỏ và đôi khi ở những loại ung thư phổi khác. Những tiến bộ gần đây về hóa trị liệu đã làm giảm đáng kể những tác dụng phụ so với trước đây. Xạ trị trong ung thư phổi: Với một mức độ năng lượng tia X phù hợp được chiếu vào tế bào ung thư nhằm tiêu diệt sự phân chia tế bào ung thư nhằm làm giảm sự phát triển của tế bào ung thư. Xạ trị được thực hiện trên những người bệnh không có chỉ định phẫu thuật hay kết hợp với hóa trị hay phẫu thuật sẽ làm tăng cơ hội sống cho người bệnh. Tác dụng phụ không mong muốn của xạ trị như mệt mỏi, thiếu năng lượng, giảm tế bào bạch cầu, tiểu cầu có trong máu hay kích thích ngoài da.
Ung thư phổi là nguyên nhân gây ra tử vong do bệnh ung thư hàng đầu ở cả nam giới và phụ nữ. Trước khi thuốc lá được sử dụng rộng rãi, ung thư phổi rất hiếm xảy ra. Ngày nay, việc hút thuốc gây ra gần 9 trong số 10 trường hợp tử vong do ung thư phổi, trong khi khí radon, ô nhiễm, và những nơi nhiễm chất hóa học đóng một vai trò nhỏ hơn.
Làm thế nào hút thuốc trở thành nguyên nhân ung thư phổi. Thuốc lá không chỉ có các hóa chất gây ung thư mà chúng còn hóa giải hệ thống phòng vệ tự nhiên của phổi. Đường hô hấp được lót bằng sợi lông nhỏ gọi là lông mao. Những sợi lông bảo vệ phổi bằng cách quét ra độc tố, vi khuẩn và virus. Khói thuốc lá sẽ làm tê liệt các lông mao để chúng không thể làm công việc của mình. Điều này cho phép chất gây ung thư để xâm nhập vào trong phổi.
Các triệu chứng ung thư phổi. Ung thư phổi thường không có triệu chứng hoặc dấu hiệu cảnh báo trong giai đoạn đầu. Khi nó tiến triển, các triệu chứng thường không đặc hiệu và có thể bao gồm:
• Ho không dứt
• Đau ngực, đặc biệt là khi hơi thở sâu
• Thở khò khè hoặc khó thở
• Ho ra đờm có máu
• Mệt mỏi
Sàng lọc ung thư phổi. Một phương pháp được gọi là quét CT xoắn ốc có thể giúp phát hiện ung thư phổi giai đoạn sớm ở một số người. Tuy nhiên, nó không rõ ràng dù có thể tìm thấy chúng sớm để cứu mạng sống người bệnh. Viện Ung thư quốc gia Mỹ đang đánh giá tính hữu dụng của phương pháp quét CT này. Một nhược điểm là quét CT xoắn ốc cho thấy rất nhiều bất thường vô hại trong phổi, có thể dẫn đến sinh thiết không cần thiết, lo lắng và thậm chí, khiến người bệnh phải trải qua ca phẫu thuật không đáng có.
Chẩn đoán ung thư phổi. Trong hầu hết các trường hợp, ung thư phổi không bị nghi ngờ cho đến khi nó gây ra các triệu chứng như ho mãn tính hoặc thở khò khè. Vào thời điểm đó, bác sĩ có thể sẽ cho bệnh nhận chụp X-quang hoặc xét nghiệm hình ảnh. Hoặc bệnh nhân ho ra đờm cũng có thể yêu cầu thử nghiệm đờm. Nếu một trong những thử nghiệm này cho thấy sự hiện diện của bệnh ung thư, có thể bạn sẽ trải qua sinh thiết.
Phương pháp sinh thiết thông thường nhất là dùng ống nội soi phế quản, là một ống nhỏ, mềm, dẻo đưa qua mũi hay miệng sau khi đã gây tê, đi qua khí quản vào phổi. Phương pháp này được sử dụng trên 80% bệnh nhân và 2/3 có kết quả sinh thiết dương tính. Xét nghiệm đờm tìm tế bào ung thư chỉ có 1/3 số ca có kết quả dương tính. Nếu khối u ở rìa phổi hay ở xa phế quản thì nội soi phế quản hay xét nghiệm đờm có thể không phát hiện được.
Ung thư phổi được chia làm hai loại chính: ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, tuỳ thuộc vào hình dạng tế bào dưới kính hiển vi. Mỗi loại ung thư phát triển và lan theo những cách khác nhau và được điều trị khác nhau. Ung thư phổi tế bào nhỏ có thể lây lan nhanh hơn tới các bộ phận khác của cơ thể. Nó gắn liền mật thiết với việc sử dụng thuốc lá và hiếm thấy ở người không hút thuốc. Ung thư phổi không tế bào nhỏ phát triển chậm hơn và phổ biến hơn, chiếm gần 90% trong tất cả các bệnh ung thư phổi .
Các giai đoạn của ung thư phổi được sử dụng để mô tả hiện trạng khối u của bệnh nhân ung thư lan rộng. Ung thư phổi tế bào nhỏ được chia thành hai giai đoạn: "Giới hạn" có nghĩa là ung thư được giới hạn trong một lá phổi và các hạch bạch huyết gần đó. "Mở rộng" có nghĩa là ung thư đã lan ra hết phổi hoặc bộ phận ngoài khác. Ung thư phổi không tế bào nhỏ có từ 1 - 4 giai đoạn, tùy thuộc vào khối u đã lan rộng bao xa.
Thời gian sống của bệnh nhân sau phẫu thuật. Khoảng 50% bệnh nhân được chữa khỏi (sống được 5 năm) bằng phẫu thuật. Thường thời gian sống còn khoảng 1-2 năm với các giai đoạn muộn. Tuy phẫu thuật chỉ kéo dài được một số trường hợp với tỷ lệ 50%, nhưng nếu không tiến hành phẫu thuật thì tỷ lệ sống còn chỉ còn khoảng 5%.
Phẫu thuật loại bỏ khối u: Có hiệu quả nhất khi khối u còn nhỏ và chưa có di căn, bệnh nhân có thể trạng tốt để phẫu thuật. 20% bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này. Những bệnh nhân được phẫu thuật lấy toàn bộ khối u có thời gian sống thêm lâu dài. Mục đích của phương pháp này là phá hủy khối u khi nó còn nhỏ (thường có đường kính 6 cm) và không có di căn. Đối với những khối u lớn thì nó làm giảm sự phát triển của khối u. Phương pháp điều trị này kéo dài cuộc sống của bệnh nhân nhưng ít khi chữa khỏi bệnh.
Điều trị bằng hóa chất: Có tác dụng tốt ở hầu hết bệnh nhân ung thư phổi loại tế bào nhỏ và đôi khi ở những loại ung thư phổi khác. Những tiến bộ gần đây về hóa trị liệu đã làm giảm đáng kể những tác dụng phụ so với trước đây.
Xạ trị trong ung thư phổi: Với một mức độ năng lượng tia X phù hợp được chiếu vào tế bào ung thư nhằm tiêu diệt sự phân chia tế bào ung thư nhằm làm giảm sự phát triển của tế bào ung thư. Xạ trị được thực hiện trên những người bệnh không có chỉ định phẫu thuật hay kết hợp với hóa trị hay phẫu thuật sẽ làm tăng cơ hội sống cho người bệnh. Tác dụng phụ không mong muốn của xạ trị như mệt mỏi, thiếu năng lượng, giảm tế bào bạch cầu, tiểu cầu có trong máu hay kích thích ngoài da.