Sáng 26/11, Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và biểu quyết thông qua Luật Dẫn độ.
Với 426/430 (chiếm 89,87%) đại biểu biểu quyết tán thành, Luật Dẫn độ đã chính thức được Quốc hội thông qua.
Trước đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội 3 vấn đề lớn: Về các trường hợp có thể bị dẫn độ (Điều 7): Có ý kiến đề nghị nâng nguỡng hình phạt tối thiểu từ 02 năm tù trở lên tại khoản 1 Điều 7 để bảo đảm hiệu quả hợp tác tư pháp quốc tế, tránh lãng phí nguồn lực hành chính cho vụ việc nhỏ, đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo, chi dẫn độ đối với những hành vi thật sự nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng: quy định “người có thể bị dẫn độ là người có hành vi phạm tội mà pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài quy định hình phạt tù có thời hạn từ 01 năm trở lên...” tại khoản 1 Điều 7 của dự thảo Luật là nội dung được kế thừa từ Luật Tương trợ tư pháp hiện hành (Điều 33), phù hợp với tập quán quốc tế và cam kết trong các hiệp định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết, nhằm bảo đảm khả năng hợp tác linh hoạt, kịp thời trong nhiều vụ việc và không giới hạn ở các hành vi phạm tội nghiêm trọng.
Trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét khả năng dẫn độ đối với người có hành vi phạm tội mà pháp luật quy định hình phạt tù là 01 năm, nhưng người đó có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, chính sách nhân đạo của Nhà nước ta được bảo đảm qua cơ chế xem xét trong từng vụ việc cụ thể chứ không bằng việc đặt thêm tiêu chí về mức hình phạt. Nếu nâng ngưỡng hình phạt tù cao hơn sẽ dẫn tới trường hợp không thể dẫn độ đối với các vụ việc có mức hình phạt thấp mặc dù vẫn có ảnh hưởng quốc tế rõ ràng, làm giảm hiệu quả hợp tác tư pháp quốc tế và không khắc phục được nguy cơ vi phạm quyền con người trong từng trường hợp cụ thể.
Do đó, để bảo đảm tính tương thích quốc tế, duy trì hiệu quả hợp tác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đề nghị Quốc hội cho giữ ngưỡng hình phạt tối thiểu là 01 năm tù như quy định của dự thảo Luật.
Về dẫn độ có điều kiện (Điều 13): Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 13 nội dung theo dõi việc thực hiện cam kết của nước ngoài sau dẫn độ; trường hợp vi phạm, Việt Nam có quyền yêu cầu bồi thường hoặc áp dụng các biện pháp ngoại giao tương ứng.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc xem xét, chấp thuận và thực hiện điều kiện dẫn độ nhất định thuộc thẩm quyền nội bộ của từng quốc gia. Sau khi việc dẫn độ được thực hiện, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, Việt Nam chỉ có thể theo dõi, đôn đốc thông qua kênh ngoại giao khi cần thiết chứ không có thẩm quyền áp dụng chế tài đối với quốc gia khác.
Hoạt động dẫn độ dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và thiện chí giữa các quốc gia, nên việc đặt ra cơ chế kiểm soát hoặc chế tài đối với nước ngoài có thể bị coi là can thiệp vào công việc nội bộ, ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, đồng thời làm phát sinh xung đột pháp lý, không phù hợp với tập quán quốc tế. Do đó, đề nghị Quốc hội cho phép không bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật.
Về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ (Điều 33): Có ý kiến cho rằng, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến quyền con người và thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong hợp tác quốc tế nên cần quy định cụ thể hơn về các cơ quan có thẩm quyền, cơ chế giao quyền và quy định về nơi giữ người trong trường hợp khẩn cấp để bảo đảm tính khả thi, đồng thời giao Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn về nội dung của quyết định giữ người, chế độ và công tác quản lý đối với người bị giữ trong thời gian giữ tại các cơ sở lưu trú. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung các nội dung nêu trên tại các khoản 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 33 của dự thảo Luật.