Kiến giải khác thường của nhà giáo dục triều Nguyễn (2)

(Kiến Thức) - Theo Nguyễn Đức Đạt: "Vua muốn lấy gỗ thì bề tôi phá rừng, vua muốn ăn cá thì bề tôi tát cạn ao ngòi. Vua đã dục thì quan không thanh liêm".

Không chỉ là một nhà giáo dục, Nguyễn Đức Đạt còn là một học giả, một triết gia. Những điều ông bàn về việc thu hút nhân tài, về đạo làm vua, làm tôi, về luật pháp và giáo hoá... đến nay vẫn là những điều đáng phải suy nghĩ.
Vua muốn lấy gỗ thì bề tôi phá rừng
Vua Minh Mạng hỏi: "Trẫm lo chấn hưng văn giáo mà sao hiền tài ít thế?". Một đình thần thưa: "Thần cũng chưa biết tại sao". Vua Tự Đức cũng hỏi tại sao đất nước thiếu kẻ hiền tài đến thế trong lúc đang bao nhiêu nhiễu sự này. 
Trong sách Nam Sơn Tùng thoại, Nguyễn Đức Đạt đã trả lời hai vua: Ông vua trước hết phải có cái gì giỏi thì những người giỏi khác sẽ kéo về đầy triều. Đi săn mà không lưới, không tên thì không được chim. Đi câu mà không mồi thì không được cá. Kẻ sĩ là chim, cá của vua chúa... vua muốn được người hiền tài phải lấy lễ làm mồi, làm lưới. Chưa đủ, muốn kẻ sĩ có tài về với mình, vua phải là đấng minh quân. Minh quân theo Nguyễn Đức Đạt là người phải có đạo đức cao, ân tính sâu, rộng dùng hiền tài giúp đỡ mọi người, hậu quý mưu lược, lo việc cày cấy, kịp việc hình án. Hình án là việc thưởng phạt. Một nhà nước dù có trật tự kỷ cương, ra đường không ai nhặt của rơi, đêm ngủ không phải cài cửa, thì vẫn phải có hình án. 
Nguyễn Đức Đạt cho rằng, giáo hoá với hình phạt khi dùng phải phân biệt với gốc ngọn, khi làm phải thứ tự trước sau. Một phần hình án, hai phần giáo hoá là đạo vương, một phần giáo hoá hai phần hình án là đạo bá, chuyên hình án mà bỏ giáo hoá là mất nước. Như vậy, dù vua là đấng chí tôn rất sáng suốt, công minh có nhiều kẻ hiền tài dưới trướng, thì nước phải có pháp luật. Bề tôi phục tùng nhà vua là để giữ gìn pháp luật. Học trò hỏi Nguyễn Đức Đạt: Vua chế ngự dân hay pháp luật cấm đoán dân? 
Nguyễn Đức Đạt trả lời: "Vua là để chế ngự quan, còn pháp luật là để ngăn cấm vua. Bề tôi mà chuyên hoạch là vì vua bỏ mất quyền. Vua mà độc đoán thì pháp luật bỏ xó. Cho nên bề tôi phục tùng vua là để giữ gìn pháp luật. Vua lập ra pháp luật là để giữ mình cho ngay thẳng. Muốn dạy bảo kẻ dưới thì bề trên phải giữ đã. Mình không tự phạm thì dân không phạm".
Những lời bàn ấy, những người cầm quyền cai trị dân chẳng phải suy nghĩ sao? Nguyễn Đức Đạt nói tiếp: "Vua muốn lấy gỗ thì bề tôi phá rừng, vua muốn ăn cá thì bề tôi tát cạn ao ngòi. Vua đã dục thì quan không thanh liêm". Ông cũng cho rằng, trời sinh ra vua để giúp dân, nhưng giúp dân vua không được xem đó là ân. Vua không được kể ân với dân.
Tranh minh họa.
Tranh minh họa. 
Hiếu thuận là gốc của đạo trị quốc
Còn bề tôi đối với vua, Nguyễn Đức Đạt khẳng định có hai đức lớn: Trung tín và ưu cần. Ông nói: "Trung tín là gốc của đức, nếu gốc không ra gốc thì dẫu đào nảy cũng vô bổ, ưu cần là nền tảng cho nghiệp, nếu nền tảng không ra nền tảng thì dẫu khẩn khẩn, khoản khoản để tỏ lòng trung, cũng vô ích cho nghiệp". 
Trong quan hệ cha con, các nhà nho đều cho chữ Hiếu là quan trọng. Hiếu thuận là đạo tề gia mà cũng là gốc của đạo trị quốc. Có hiếu mới có trung, đã bất hiếu với cha thì không thể trung với vua được. Nho giáo xem nước là gia đình mở rộng, xem thiên hạ là nước mở rộng, cho nên cái lý của tề gia cũng là cái lý của trị quốc và bình thiên hạ. 
Nguyễn Đức Đạt cũng không ngoài quan niệm ấy, cho nên ông ăn ở phụng dưỡng cha mẹ chí hiếu. Lúc đau yếu già nua thì hết lòng chăm sóc. Lúc cha mẹ qua đời thì xin về cư tang nghiêm túc. học trò nhắc đến ông, bạn bè và người đời nhắc đến ông là nhắc đến tấm lòng, cách ăn ở, nói năng đối với cha mẹ hết lòng theo chữ hiếu của ông coi đó là một tấm gương để răn dạy con cháu.

Kiến giải khác thường của nhà giáo dục thời Nguyễn

(Kiến Thức) -  Nguyễn Đức Đạt đã có những phân tích, kiến giải khác thường, khá tích cực so với thời đại về Đạo Nho.

Vốn là nhà giáo, Nguyễn Đức Đạt rất coi trọng phương pháp giáo dục. Về mục đích việc học, ông viết: “Người quân tử học là vì mình, học không phải để làm quan, sự học vì mình thì phải học suốt đời, còn kẻ nào học để làm quan, chưa làm thì học, được làm quan rồi thì không học nữa”.

10 “thiên đường ngầm'” quyến rũ nhất Việt Nam

(Kiến Thức) - Là đất nước có địa hình phức tạp, Việt Nam đã được thiên nhiên ban tặng cho nhiều "thiên đường ngầm" - những hang động có vẻ đẹp quyến rũ mê hồn.

Động Hương Tích là một hang động kì vĩ nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Hương Sơn, thuộc huyện Mỹ Đức cách trung tâm Hà Nội gần 70km về phía Tây Nam. Động được phát hiện ra từ rất lâu nhưng đến đời vua Lê thế kỷ 15 mới dùng để thờ Phật. Trong động có chùa, cổng chùa bằng đá, được xây dựng vào năm 1914. Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên nhiên, Chùa động còn có những công trình điêu khắc cổ có giá trị. Năm 1770, chúa Trịnh Sâm từng thăm quan động và đặt tên cho động là "Nam Thiên đệ nhất động" tức động đẹp nhất trời Nam.
Động Hương Tích là một hang động kì vĩ nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Hương Sơn, thuộc huyện Mỹ Đức cách trung tâm Hà Nội gần 70km về phía Tây Nam. Động được phát hiện ra từ rất lâu nhưng đến đời vua Lê thế kỷ 15 mới dùng để thờ Phật. Trong động có chùa, cổng chùa bằng đá, được xây dựng vào năm 1914. Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên nhiên, Chùa động còn có những công trình điêu khắc cổ có giá trị. Năm 1770, chúa Trịnh Sâm từng thăm quan động và đặt tên cho động là "Nam Thiên đệ nhất động" tức động đẹp nhất trời Nam. 

Ai là người chấn hưng giáo dục thời Nguyễn?

(Kiến Thức) - Nhà giáo dục thời Nguyễn Nguyễn Đức Đạt có những phân tích, kiến giải khác thường, khá tích cực so với thời đại về Đạo Nho.

Nam Sơn chủ nhân
Nguyễn Đức Đạt, tự Khoát Như, sinh năm 1824 tại làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, tổng Trung Cần, nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn - một vùng núi sông hùng vĩ, có nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp. Ông sinh ra trong một gia đình khoa bảng: cha là Nguyễn Đức Diện đỗ cử nhân năm 1824, con là Nguyễn Đức Hiển đỗ cử nhân năm 1912 và cháu là Nguyễn Đức Vân đỗ phó bảng năm 1906.
Từ thuở nhỏ Nguyễn Đức Đạt nổi tiếng thông minh, học giỏi và uyên bác về nhiều mặt. Ông đỗ cử nhân khoa Đinh Mùi (1847) đến khoa thi Quý Mão đời Tự Đức (1853), ông cùng Nguyễn Văn Giao, người làng Trung Cần đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh tức Thám hoa. Các vị trúng đệ nhất giáp đều được vua mời gặp. Nguyễn Đức Đạt được gọi vào trước nên gọi là Thám Nhất.
Buổi đầu Nguyễn Đức Đạt được bổ làm quan ở Viện Tập Hiện làm thị giảng rồi bổ làm Cấp sự trung. Được một thời gian ông xin triều đình về quê mở trường dạy học và phụng dưỡng cha mẹ già. Nghe tiếng về trình độ học vấn và đức độ của ông, sĩ tử gần xa đến xin học rất đông. Trường học không đủ chỗ ngồi, những buổi bình văn, thầy Đạt phải chuyển trường lên núi Nam Sơn, cách nhà khoảng 500m.
Tại đây, thầy lợi dụng những bậc đá cao thấp làm thành một giảng đường tự nhiên, rất thuận tiện và thoáng đãng. Hàng trăm học sinh đã đến nghe thầy bình văn, giảng sách nên đường gọi là trường Nam Sơn, còn bản thân thầy được gọi là Nam Sơn chủ nhân. Những giáo trình thầy soạn ra để cho học sinh học được gọi là giáo trình của trường Nam Sơn như Nam Sơn song khoá phú tuyển, Nam Sơn song khoá chế nghĩa, Nam sơn Tùng thoại...
Lều chõng đi thi Hương dưới thời triều Nguyễn.
Lều chõng đi thi Hương dưới thời triều Nguyễn. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới