Loài ốc sên có nguồn gốc từ châu Á này du nhập vào Mỹ từnăm 1892.
Theo Daily Mail, sinh vật này được biết đến với tên gọi "ốc sên bí ẩn Trung Quốc" hoặc Nhật Bản, lần đầu được phát hiện ở Mỹ trong các khu chợ hải sản vào năm 1892.
Nhiều bang ở Mỹ đã ban hành lệnh cấm thả loài ốc sên này vào tự nhiên, nhưng cho phép người dân nuôi trong bể cá cảnh. Nhưng bang Georgia lại áp dụng biện pháp nghiêm ngặt hơn.
Sinh vật này cũng có thể ảnh hưởng đến ngành thủy sản địa phương, vì sự sinh sôi của loài ốc sên này sẽ lấn át các loài bản địaquan trọngtrong chuỗi thức ăn.
WRD cho biết, loài ốc xâm lấn này được phát hiện trong quá trình lấy mẫu thường lệ ở hồ Lanier. "Đây không chỉ là những phát hiện riêng lẻ mà có cả một quần thể ốc sên xâm lấn có khả năng sinh sản", Jim Page, quan chức của WRD, cho biết.
Loài ốc sên này có kích thước lớn,có khả năng sinh sôi mạnh và sống dai.
WRD kêu gọi người dân bang Georgia giúp đỡ "ngăn chặn sự lây lan" của loài ốc sên bí ẩn. "Phòng ngừa vẫn là công cụ tốt nhất của chúng ta trong cuộc chiến chống lại các loài xâm lấn và việc phòng ngừa chỉ có thể đạt được khi có sự giúp đỡ của cộng đồng", Page nói. "Mỗi người dân hãy dành chút thời gian để dọn dẹp vệ sinh nguồn nước, tàu thuyền, công cụ đánh bắt cá. Không thả các sinh ngoại lai như ốc sên ra môi trường tự nhiên. Hãy bảo vệ nguồn nước của chúng ta".
Các chuyên gia động vật hoang dã ở Mỹ cho biết, loài ốc sên bí ẩn này có thể được nhận dạng bằng kích thước lớn. Chúng phát triển tới kích thước 7cm, tính từ đỉnh đến mép vỏ. Lớp vỏ có có 6-7 vòng xoắn và có màu xanh ô liu,nâu,xanh lục.
Ốc sên trưởng thành và ốc sên non đều có thể ẩn náu trong bùn hoặc bám vào mỏ neo và dây thừng cũng như đồ lặn, câu cá.
Loài ốc sên xâm lấn này có thể lấn át các sinh vật bản địa nhờ vào lớp vỏ cứng chắc, giúp bảo vệ chúng khỏi những kẻ săn mồi to lớn. Sinh vật này còn có thể sống tới 4 tuần trong môi trường không có nước, miễn là đóng chặt nắp vỏ.
Do thói quen ăn uống vô độ, ốc sên xâm lấn có xu hướng làm thay đổi chu trình hóa học và dinh dưỡng của môi trường nước bằng một lượng lớn chất thải mà chúng thải ra. Điều này dẫn đến những thay đổi đột ngột về quy mô của quần thể vi khuẩn, tảo và động vật phù du.