Hơi thở của khủng long nặng mùi khủng khiếp

(Kiến Thức) - Khủng long thời tiền sử có hơi thở nặng nề, mùi hôi và niêm mạc ẩm ướt. Đặc biệt, loài vật này không có lông mũi.

Các nhà nghiên cứu vừa tái dựng cấu trúc hơi thở của khủng long và phát hiện loài động vật đã tuyệt chủng từ lâu này có hơi thở khá nặng nề, niêm mạc ẩm ướt, hơi thở có mùi hôi. Đặc biệt, hơi thở có thể giúp loài này đánh hơi môi trường xung quanh và làm mát bộ não rất đặc biệt.
Khủng long có hơi thở nặng mùi.
 Khủng long có hơi thở nặng mùi.
Tác giả chính của nghiên cứ là nhà khoa học Jason Bourke và nhóm của ông sử dụng loài khủng long ăn thực vật Stegoceras làm mẫu để xây dựng mô hình vì loài vật này có một hộp sọ đặc biệt, cùng với hóa thạch ở khu vực mũi vẫn còn nguyên vẹn. Nghiên cứu cũng giúp giải thích lý do tại sao hầu hết các loài khủng long lại có mõm dài như vậy. Đồng thời, khám phá tiết lộ thêm khía cạnh của cuộc sống loài động vật thời tiền sử.
Sự khác biệt lớn nhất giữa khủng long Stegoceras và con người (về vấn đề hô hấp) là chúng có thể thở lâu và sâu hơn (giống như loài chim hoặc bò sát). Một khác biệt nữa là con người và các loài động vật có vú khác có lông phía trong mũi để giúp ngăn chặn bụi bẩn đi vào cơ thể. Trong khi đó, khủng long không có lông mũi, có thể là nguyên nhân sinh ra các tuyến nhầy.
Các nhà nghiên cứu giải thích rằng trong mỗi hơi thở của khủng long, không khí sẽ chuyển từ lỗ mũi thông qua các cấu trúc bên trong của đoạn mũi. Một số luồng không khí đi vào điểm "chết" ở phía sau của mũi, nơi có nhiều khứu giác.

Bật mí nửa thế kỷ theo dấu khủng long ở Việt Nam

(Kiến Thức) - Từ trên 50 năm nay, các nhà khoa học Việt Nam vẫn lặng lẽ lần theo dấu tích  loài động vật tiền sử khủng long mỗi khi có cơ hội...

Theo dấu khủng long
Công tác nghiên cứu cổ sinh vật trên lãnh thổ Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng được các nhà khoa học Pháp tiến hành từ những năm cuối thế kỷ XIX. Nền nghiên cứu khoa học cổ sinh non trẻ của Việt Nam mới chỉ được hình thành từ sau khi chiến thắng thực dân Pháp năm 1954 với một dấu mốc quan trọng. Đó là việc thành lập bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 do Đovjikov A.E. (1960 - 1962) chủ biên; trong đó có sự tham gia nghiên cứu của các nhà cổ sinh Việt Nam: PGS Dương Xuân Hảo, GS Đặng Vũ Khúc, GS Nguyễn Văn Liêm,  GS Tống Duy Thanh, KS Nguyễn Bá Nguyên, KS Trần Đình Nhân; và sau đó là thành lập Phòng nghiên cứu cổ sinh đầu tiên của Việt Nam (1962) thuộc Tổng cục Địa chất. 

Đọc nhiều nhất

Tin mới