Che Guevara (tên thật là Ernesto Guevara de la Serna, 1928-1967) là một nhà cách mạng nổi tiếng người Argentina, với những chiến công lẫy lừng giúp cách mạng Cuba thành công.
|
Che Guevara, người anh hùng của cách mạng giải phóng Mỹ Latinh. Ảnh: Al Jazeera |
Thời trai trẻ của Ernesto Guevara
Ernesto Guevara de la Serna, được biết đến trên toàn thế giới là Che Guevara, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1928, trong một gia đình trung lưu ở Rosario, đông bắc Argentina.
Ông được sinh ra và lớn lên trong một gia đình thiên tả, trước khi bắt đầu học ngành Y tại Đại học Buenos Aires năm 1948.
Hai năm sau, Guevara bắt đầu chuyến đi xe máy đầu tiên xuyên Mỹ Latinh, một chuyến đi giúp hình thành quan điểm chính trị và mục đích của ông sau này.
Sau hai chuyến hành trình xuyên Mỹ Latinh (lần lượt là 4.500km và 8.000km), Guevara đã nhận thức rằng giải pháp cho nạn nghèo đói và áp bức phổ biến rộng rãi mà ông đã chứng kiến là cuộc cách mạng vũ trang và chủ nghĩa cộng sản.
Tại Guatemala, Guevara đã gặp Hilda Gadea (một phụ nữ Peru lưu vong), người sau này đã trở thành vợ ông . Cô đã giới thiệu hai người với những người Cuba trong “Phong trào 26 tháng 7” đang sống lưu vong.
Sau một thời gian làm việc tại bệnh viện, Guevara lại lên đường dến Mexico. Tại đây, ông đã được giới thiệu với Fidel Castro Ruz (tháng 7/1955) và không lâu sau lần gặp gỡ đó, ông đã tự nguyện tham gia nhóm viễn chinh của những người cách mạng Cuba với cái tên Che Guevara.
Lãnh đạo chiến tranh du kích ở Cuba
Tháng 4 năm 1956, Che Guevara bắt đầu được huấn luyện quân sự cùng với những người Cuba khác và được đánh giá là một trong những học viên xuất sắc nhất.
Ngày 25 tháng 11 năm 1956, Che Guevara đã cùng với 82 người khác vượt biển trở về Cuba trên con tàu Granma và ngày 2 tháng 12 năm 1956, họ đã bí mật đổ bộ lên hòn đảo Cuba.
Sau khi đổ bộ vào Cuba, đội quân của Fidel Castro đã sử dụng chiến tranh du kích, tiến hành nhiều trận đánh nổi tiếng như trận Algeria del Pio đánh chiếm trại lính La Plata, trận Arroyo del Infierno, El Uvero... Nhờ sử dụng chiến thuật du kích, nên chỉ với lực lượng ít nhưng họ vẫn giành nhiều chiến thắng quan trọng. Hồi tháng 6 năm 1958, 320 quân cách mạng đã phải chống lại 1 vạn quân chính quy của chế độ Batista. Cuộc chiến kết thúc, chính quyền vẫn không tiêu diệt được quân cách mạng mà còn bị tổn thất 1.000 quân và 400 binh sĩ khác thì bị quân cách mạng bắt làm tù binh.
Ngày 21 tháng 7 năm 1957, Che Guevara được Fidel Castro thăng hàm Thiếu tá trước cả Raul Castro và Juan Almeida và giao trách nhiệm thành lập Đạo quân số 4. Chỉ một tháng sau đó, Che đã chỉ huy Đạo quân số 4 thắng trận El Hombrito (ngày 30 tháng 8).
Tháng 8 năm 1958, Che Guevara và Camilo Cienfuesgos lãnh đạo các đội quân bắt đầu phát động “chiến dịch chinh phục” từ phía tây Cuba, hành quân trên chặng đường dài 554 km trong 47 ngày, chủ yếu là đi bộ. Che thống nhất chỉ huy các cánh quân chống chế độ Batista. Quân nổi dậy bắt đầu tấn công vào Santa Clara, trung tâm kinh tế, đầu mối giao thông quan trọng. Ngày 31 tháng 8 năm 1958 quân nổi dậy chiếm được Santa Clara làm cho chế độ Batista nhanh chóng đi vào chỗ diệt vong. Batista phải chạy trốn ra nước ngoài, bắt đầu cuộc sống lưu vong.
Ngày 4 tháng 1 năm 1959, Che Guevara cùng với những chỉ huy quân nổi dậy khác tiến vào La Habana trên vị thế của những người chiến thắng.
Chính quyền mới của quân cách mạng được thành lập, Che Guevara là một trong bộ ba lãnh đạo gồm (Che Guevara, Fidel Castro và Raul Castro) của Cuba.
Tiếp tục lao vào cuộc chiến mới
Tháng 3 năm 1963, Che Guevara quyết định từ nhiệm mọi cương vị kể cả quyền công dân Cuba để lên đường thực hiện mong muốn tiếp tục được cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giành tự do của các dân tộc bị áp bức.
Trong bức thư gửi Chủ tịch Fidel Castro (được chính Fidel đọc trong buổi lễ thành lập Đảng Cộng sản Cuba), Che Guevara đã nói rõ việc ông thôi giữ cương vị lãnh đạo là hoàn toàn tự nguyện, thể theo tiếng gọi của trái tim yêu tự do, khao khát hòa bình và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng loài người khỏi áp bức và bất công.
Đầu tháng 10/1967, Che Guevara và một số chiến hữu dùng thông hành giả để đến La Paz (thủ đô của Bolivia). Từ La Paz họ bí mật vào rừng thành lập một nhóm du kích quân, với mục đích tạo nên một hạt nhân đấu tranh thí điểm nhằm giải phóng cả châu Mỹ Latinh. Sau 11 tháng chiến dịch, dần dần tổ chức của ông bị bại lộ và cuối cùng thất bại.
Do có nội gián, căn cứ và hoạt động của tổ chức bị phát hiện. Các đồng chí thân cận bên Che Guevara lần lượt tử trận. Cuối cùng, ông bị bắt ngày 7 tháng 10 năm 1967 trong tình trạng bị thương ở chân, sau một cuộc giao tranh trong lúc ông và các chiến hữu đang tìm đường thoát ra khỏi rừng ở vùng Quebrada del Yuro. Ông bị hành quyết ngày 8/10/1967 (giờ Tây Bán Cầu) theo chỉ thị của CIA.
Ra đi khi ở tuổi 39, nhưng Che Guevara để lại một di sản cách mạng đồ sộ mà ít có nhân vật chính trị nào có được trong lịch sử thế giới cận đại, đồng thời đã trở thành một biểu tượng toàn cầu về tinh thần cách mạng cao thượng và quả cảm, xả thân bảo vệ công lý và những người chịu thiệt thòi trên thế giới, sẵn sàng chấp nhận gian khổ để theo đuổi và bảo vệ hoài bão, lý tưởng của mình.