Thạc sĩ, bác sĩ Vũ Mạnh Cường, Phó khoa Bệnh truyền nhiễm - Bệnh viện E , cho biết từ đầu năm đến nay có gần 20 bệnh nhân mắc quai bị đến khám, chủ yếu điều trị ngoại trú.
Bệnh nhân T.V.A (28 tuổi, ở Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội) vào viện trong tình trạng sốt, sưng đau góc hàm hai bên, tinh hoàn bên trái sưng đau. Các bác sĩ khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện E tiến hành khám lâm sàng và các xét nghiệm cần thiết, xác định bệnh nhân A mắc quai bị có biến chứng viêm tinh hoàn bên trái.
Qua siêu âm, các bác sĩ phát hiện dịch trong màng tinh hoàn, tinh hoàn bên trái có kích thước to hơn bình thường. Năm ngày trước đó, bệnh nhân có tiếp xúc với một người bạn mắc quai bị.
Một ngày sau, bệnh nhân có biểu hiện sốt nhẹ, sưng đau góc hàm bên phải, sau đó bệnh lan xuống tinh hoàn bên trái. Bệnh nhân tự điều trị tại nhà không khỏi.
Bệnh nhân Đ.T.V (63 tuổi, ở Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) cũng nhập viện do mắc quai bị từ năm ngày trước. Bệnh nhân V. nhập viện trong tình trạng sưng đau góc hàm bên phải, sau đó lan sang bên trái.
Qua siêu âm, tuyến nước bọt mang tai hai bên của bệnh nhân có kích thước to hơn bình thường. Kết quả xét nghiệm cho thấy men tụy trong máu (amylase) tăng cao gấp 2,5 lần bình thường.
Khai thác tiền sử bệnh án cho thấy bệnh nhân không rõ nguồn lây, người thân trong gia đình không ai mắc bệnh. Bệnh nhân chưa tiêm vắc xin phòng bệnh quai bị.
|
Bác sĩ Cường thăm khám cho bệnh nhân mắc quai bị. Ảnh: Thanh Xuân. |
Theo thạc sĩ Cường, bệnh quai bị ở người lớn ít gặp, nhưng thường nặng và có nhiều biến chứng ở trẻ em. Người bệnh có thể gặp các biến chứng như viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn với tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời.
Bên cạnh đó, tinh hoàn có thể sưng to, đau, mào tinh căng. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 50% trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng, thậm chí vô sinh.
Người bệnh cũng có thể gặp biến chứng gây viêm buồng trứng, có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh. Đặc biệt, bệnh quai bị ở phụ nữ có thai trong ba tháng đầu của thai kỳ có thể gây sảy thai hoặc sinh con dị dạng, trong ba tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.
Ngoài ra, biến chứng của bệnh còn gây nhồi máu phổi, là tình trạng một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Đây là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.
Biến chứng gây viêm tụy có tỷ lệ 3-7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp. Các tổn thương thần kinh: viêm não có tỷ lệ 0,5% (bệnh nhân có các hiện tượng như thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy), tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm tủy sống cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh.
Ngoài ra, một số biến chứng nguy hiểm khác như viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu…
Bác sĩ Cường khuyến cáo bệnh nhân cần cách ly hai tuần kể từ lúc phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn những thực phẩm dễ tiêu hoá, giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng paracetamol.
Tiêm vắc xin vẫn là biện pháp phòng bệnh quai bị tốt nhất, có thể tiêm từ khi trẻ 9 tháng tuổi. Tiêm vắc xin có tác dụng kích thích trẻ sản sinh kháng thể kháng quai bị. Kháng thể đạt mức độ cao nhất sau khi tiêm chủng 6-7 tuần. Tiêm chủng khẩn cấp được chỉ định cho bé từ 12 tháng tuổi, trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa có tiền sử mắc bệnh.