Giang mai ở người lớn. Người lớn chủ yếu mắc bệnh giang mai qua quan hệ tình dục không an toàn với người bệnh. Xoắn khuẩn Treponema pallidum xâm nhập vào cơ thể người rồi gây bệnh giang mai. Giang mai có 3 thời kỳ:Thời kỳ I. Đây là thời kỳ ủ bệnh, thường kéo dài trong khoảng 3 tuần. Sau 3 tuần nhiễm Treponema pallidum trên cơ thể người bệnh bắt đầu nổi các nốt, ban đỏ hình ô van hay bầu dục có viền màu đỏ. Các hình ô van này còn được gọi là săng giang mai thường có kích thước từ 0,5-2cm, khi rửa sạch sẽ nhìn thấy đáy không bằng phẳng, màu đỏ tươi, nền cứng, ấn vào không đau. Sau đó khoảng 1 tuần sẽ xuất hiện sự sưng đau của hạch.Săng thường xuất hiện ở bộ phận sinh dục, bàn tay và bàn chân của người bệnh. Sau xuất hiện từ 3-6 tuần các săng sẽ tự mất đi khiến người bệnh tưởng lầm rằng đã khỏi. Giang mai ở miệng lây do quan hệ tình dục bằng miệng, đường hôn.Thời kỳ II. Sau khoảng 4-10 tuần biến mất, săng giang mai lại xuất hiện trở lại với triệu chứng mờ nhạt hơn vì nó xuất hiện ẩn dưới da với màu hồng đào hay đậm hơn người ta gọi đó là hồng ban. Khi ấn vào các nốt hồng ban thì nó sẽ biến mất.Hồng ban xuất hiện ở 2 bền sườn, cánh tay và vùng ngực, bụng. Sau giai đoạn về hồng ban sẽ xuất hiện các sẩn gồ ghề, người ta gọi là sẩn giang mai, nó có thể liên kết lại với nhau tạo thành các mảng, khi cọ xát vào sẽ dễ bị trầy, chảy dịch mủ,.. Thời kỳ này người bệnh cũng sẽ có những triệu chứng như đau họng, sốt, nổi hạch, đau đầu,…triệu chứng này sẽ mất đi sau 3-6 tuần.Thời kỳ tiềm ẩn. Sau giai đoạn 2, các nốt sẩn tự mất đi và người bệnh sẽ ở trong giai đoạn bệnh tiềm ẩn kéo dài từ 1-2 năm. Giang mai tiềm ẩn sớm (sau 1 năm) sẽ dễ lây nhiễm hơn giang mai tiềm ẩn muộn (sau 2 năm). Thời kỳ 3. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 3-15 năm sau khi có những triệu chứng đầu tiên của bệnh. Giai đoạn này bệnh không có khả năng lây nhiễm.Giai đoạn 3 được chia làm 3 hình thức. Củ giang mai (chiếm 15%). Xuất hiện từ 1- 46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), trên cơ thể người bệnh xuất hiện hình cầu hay mặt phẳng không đối xứng có màu đỏ mận, kích thước như hạt ngô, mật độ dày và có danh giới rõ rang.Giang mai thần kinh (chiếm 6,5%). Xảy ra sau 4-25 năm mắc bệnh, người bệnh bị suy nhược thần kinh, trầm cảm, rối loạn ý thức, mắc chứng ảo giác, đột quỵ,…Biến chứng giang mai. Giang mai tim mạch (chiếm 10%). Diễn ra từ 10-30 năm mắc bệnh, người bệnh thường gặp biến chứng phình mạch.Giang mai ở trẻ em. Phụ nữ mang thai mắc bệnh giang mai sẽ lây nhiễm bệnh cho thai nhi qua đường máu và nhau thai. Thường những trường hợp này thai nhi bị chết lưu, đẻ non và có những dị tật bẩm sinh khi sinh, trẻ bị giang mai bẩm sinh rất khó sống sót.Trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục hay chung sống với bố mẹ mắc giang mai cũng có thể bị nhiễm bệnh từ người lớn thông qua tiếp xúc với dịch mủ của người bệnh trên bề mặt da hay đường hôn.
Giang mai ở người lớn. Người lớn chủ yếu mắc bệnh giang mai qua quan hệ tình dục không an toàn với người bệnh. Xoắn khuẩn Treponema pallidum xâm nhập vào cơ thể người rồi gây bệnh giang mai. Giang mai có 3 thời kỳ:
Thời kỳ I. Đây là thời kỳ ủ bệnh, thường kéo dài trong khoảng 3 tuần. Sau 3 tuần nhiễm Treponema pallidum trên cơ thể người bệnh bắt đầu nổi các nốt, ban đỏ hình ô van hay bầu dục có viền màu đỏ.
Các hình ô van này còn được gọi là săng giang mai thường có kích thước từ 0,5-2cm, khi rửa sạch sẽ nhìn thấy đáy không bằng phẳng, màu đỏ tươi, nền cứng, ấn vào không đau. Sau đó khoảng 1 tuần sẽ xuất hiện sự sưng đau của hạch.
Săng thường xuất hiện ở bộ phận sinh dục, bàn tay và bàn chân của người bệnh. Sau xuất hiện từ 3-6 tuần các săng sẽ tự mất đi khiến người bệnh tưởng lầm rằng đã khỏi. Giang mai ở miệng lây do quan hệ tình dục bằng miệng, đường hôn.
Thời kỳ II. Sau khoảng 4-10 tuần biến mất, săng giang mai lại xuất hiện trở lại với triệu chứng mờ nhạt hơn vì nó xuất hiện ẩn dưới da với màu hồng đào hay đậm hơn người ta gọi đó là hồng ban. Khi ấn vào các nốt hồng ban thì nó sẽ biến mất.
Hồng ban xuất hiện ở 2 bền sườn, cánh tay và vùng ngực, bụng. Sau giai đoạn về hồng ban sẽ xuất hiện các sẩn gồ ghề, người ta gọi là sẩn giang mai, nó có thể liên kết lại với nhau tạo thành các mảng, khi cọ xát vào sẽ dễ bị trầy, chảy dịch mủ,.. Thời kỳ này người bệnh cũng sẽ có những triệu chứng như đau họng, sốt, nổi hạch, đau đầu,…triệu chứng này sẽ mất đi sau 3-6 tuần.
Thời kỳ tiềm ẩn. Sau giai đoạn 2, các nốt sẩn tự mất đi và người bệnh sẽ ở trong giai đoạn bệnh tiềm ẩn kéo dài từ 1-2 năm. Giang mai tiềm ẩn sớm (sau 1 năm) sẽ dễ lây nhiễm hơn giang mai tiềm ẩn muộn (sau 2 năm).
Thời kỳ 3. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 3-15 năm sau khi có những triệu chứng đầu tiên của bệnh. Giai đoạn này bệnh không có khả năng lây nhiễm.
Giai đoạn 3 được chia làm 3 hình thức. Củ giang mai (chiếm 15%). Xuất hiện từ 1- 46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), trên cơ thể người bệnh xuất hiện hình cầu hay mặt phẳng không đối xứng có màu đỏ mận, kích thước như hạt ngô, mật độ dày và có danh giới rõ rang.
Giang mai thần kinh (chiếm 6,5%). Xảy ra sau 4-25 năm mắc bệnh, người bệnh bị suy nhược thần kinh, trầm cảm, rối loạn ý thức, mắc chứng ảo giác, đột quỵ,…
Biến chứng giang mai. Giang mai tim mạch (chiếm 10%). Diễn ra từ 10-30 năm mắc bệnh, người bệnh thường gặp biến chứng phình mạch.
Giang mai ở trẻ em. Phụ nữ mang thai mắc bệnh giang mai sẽ lây nhiễm bệnh cho thai nhi qua đường máu và nhau thai. Thường những trường hợp này thai nhi bị chết lưu, đẻ non và có những dị tật bẩm sinh khi sinh, trẻ bị giang mai bẩm sinh rất khó sống sót.
Trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục hay chung sống với bố mẹ mắc giang mai cũng có thể bị nhiễm bệnh từ người lớn thông qua tiếp xúc với dịch mủ của người bệnh trên bề mặt da hay đường hôn.