Bí mật đằng sau lễ hội “trò nhại” Nõ Nường

(Kiến Thức) - Việc tôn vinh thờ cúng về vật linh nơi “sinh ra” con người hầu hết nhân loại đều có, nhưng riêng người Kinh Giao Chỉ mới có dòng lễ hội “Trò nhại”... 

Việc tôn vinh thờ cúng về vật linh nơi “sinh ra” con người hầu hết nhân loại đều có, nhưng riêng người Kinh Giao Chỉ mới có dòng lễ hội “Trò nhại” - nhại lại việc “lắp khít” nhau của Nõ Nường để sinh ra một đứa bé: Lấy đó làm bùa chú trừ đuổi tà ma, triệt tiêu hiểm họa bảo vệ sự yên bình cho xóm làng cùng mùa màng hoa trái gia súc. Vật linh này được thờ trong miếu Trò Trám, Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ), với bài Văn tế minh triết, ngợi ca vật linh là bậc Tổ phụ và Tổ mẫu. 
Vật linh có đầy đủ các "phép thần thông"
Dòng lễ hội này lan tỏa khắp vùng Đông Nam Á (Bách Việt), có lãnh thổ từ bờ Nam sông Trường Giang đến tận các quần đảo phía Nam biển Đông. Trong bài Văn tế miếu Trò có nói đến việc thuở mới rời Gò Mun xuống xóm Trám: "Bồng lai hải đảo tiên nhân", hoặc "Hãn tai ngữ họa” tức là án ngữ ngăn chặn, hoặc miếu mạo anh linh van cổ như tân. Nghĩa là vật linh Nõ Nường có đầy đủ các phép thần thông linh nghiệm ngăn chặn và triệt tiêu tại họa cho cộng đồng.  
Như vậy, vật linh trên thạp đồng Đào Thịnh là bùa chú bảo vệ hài cốt của vị Vua nằm trong mộ; cũng như  trong chữ  tổ có chữ thả. Chữ "thả" nguyên ý là chỉ bộ phận sinh thực của nam giới (tượng hình). Người Trung Quốc đời đời kiếp kiếp cúng tế nó, cho nên đã đem chữ "thị" có nghĩa là mô phỏng đàn tế trời (thờ cúng) ghép vào chữ "thả" biến thành chữ "tổ" (1): hoặc cũng ví như thần Siva của Ấn Độ tay trái cầm Linga đặt trên đầu gối, và nhìn đằng sau, cả pho tượng là trụ Linga – tức là Linh ga Yoni hợp thành (ảnh Thần Siva).
Trò Trám là tên gọi của địa phương, giới nghiên cứu gọi là Lễ hội phồn thực, chúng tôi gọi là lễ hội “Trò nhại” - Nõ Nường. Khi gọi lễ hội “trò nhại” Nõ Nường thì  mới biểu đạt về phần tâm linh ma thuật của hai linh vật Nõ Nường: Lấy đó làm vật “hèm” bùa chú, để trù diệt tà ma, triệt tiêu hiểm họa, ngăn ngừa dịch bệnh cho con người và những của cải do con người tạo ra. Đó còn là dòng lễ hội vòng đời, với phút khởi nguyên, nên gọi là lễ “cầu đinh” (cầu con trai). 
Bi mat dang sau le hoi “tro nhai” No Nuong
Vật linh trên thạp đồng Đào Thịnh.  
Nguồn gốc của dòng lễ hội trò nhại
Sự ra đời của dòng lễ hội “trò nhại” Nõ Nường là ở thời chưa có thuật ngữ giao phôi, mà nhận thức bằng con đường trực quan, thấy hai vật Nõ Nường “lắp khít” nhau, sau đó ở Nường sinh ra một đưa bé, mọi người hân hoan reo mừng chào đón. Nhưng rồi tai họa lại ập đến: Đứa bé ấy bị ốm đau lâu ngày và có chiều hướng dẫn đến cái chết. Mọi người lo lắng, xót xa mà đành bó tay.  
Trước tình cảnh quẫn bách ấy, những bậc cao niên “Tiên triết” cho rằng: Chỉ nơi đã có khả năng kiệu sinh ra đứa bé ấy thì ở đó hẳn ở đó phải có linh nhiệm để cứu giúp đứa bé ấy qua khỏi cơn nguy biến. Đó là nguồn gốc của lễ hội “trò nhại” Nõ Nường “lắp khít” nhau - Nghĩa là “trò nhại” phải tiến hành đúng các động thái mà vật linh Nõ Nường đã từng tiến hành trong khi thụ thai đứa bé ấy: Lấy đó làm bùa chú, cứu chữa cho nó. Lễ hội “trò nhại” mới đầu có thể  đơn giản, thô sơ, về sau được hoàn thiện hơn, cho nên hai tiếng “trò nhại” Nõ Nường vẫn còn truyền nối đến ngày nay trong lễ hội Trò Trám.  
 “Trò Trám” thì chữ “trò” là “trò nhại” còn chữ “trám” là rừng trám – tức là “trò nhại” Nõ Nường “lắp khít” nhau tiến hành ở trong rừng trám: Cây trám to, cao đặc sản của miền trung du nơi trú ngụ của ma quỷ, nó như cây gạo nơi trú ngụ của ma quỷ ở miền xuôi.
Đây là dòng lễ hội hèm tục bùa chú ma thuật, được hình thành từ buổi đầu sơ khai của nhận thức, đến thời điểm ra đời Nhà nước Văn Lang, được giới pháp sư, thù thủy, chiêm tinh thầy bói trong Triều đại Hùng Vương hoàn thiện, nâng cao thành giá trị tổng hợp mới, gọi là lễ hội Vòng đời ghi làm hoa văn trên Thần Đồng Ngọc Lũ.  
“Trò nhại” được tiến hành một cách kính cẩn, nghiêm trang với lòng thành kính và niềm tin tuyệt đối, nhờ đó đã đem lại sự an lành cho dân tộc ta trong chiều dài lịch sử bốn ngàn năm tồn tại và phát triển. Đó là nguyên nhân khởi nguyên của lễ hội “Trò nhại”. Ý nghĩa hiệu nghiệm của vật “hèm” bùa chú là ở chỗ khi thực hiện lễ thức “Trò nhại” ấy thì phải được thụ thai một đứa bé, cho nên các bà đi hội có chửa là “Cá ao ai về ao ta ta được”, với  các bà góa mà thụ thai thì càng tốt, đặc biệt các đôi nam nữ mà cô gái có chửa thì càng hiệu nghiệm hơn. 
Những đứa bé sinh ra trong lễ tục hèm “Trò nhại” ấy, nó là của quý vật cưng là “bùa chú”: Triệt tiêu mọi hiểm họa, ốm đau, bệnh tật, gia súc mùa màng cây trái tốt tươi. Mọi người may mắn ăn nên làm ra Phúc –Lộc –Thọ -Khang cho cả làng. Lễ hội “trò nhại” được sinh ra ở thời điểm chưa có ngành Y tế và thuốc trừ sâu. Vì thế, nếu những người có chửa ngoài lễ “hèm” tục thì đứa bé ấy gọi là con “hoang” bị khinh rẻ, mẹ nó bị cạo trọc bôi vôi thả trôi sông. Lệ làng là thế, hèm tục là thế. 
Bi mat dang sau le hoi “tro nhai” No Nuong-Hinh-2
 Thần Shiva.
Tín ngưỡng nguyên thủy là bình minh của trí tuệ
Lễ hội “trò nhại” lắp khít nhau của Nõ Nường còn gọi là “múa mo” – tức là cầm dùi đục “phộc” vào mo nang diễn ra đầu xuân để làm bùa chú bảo vệ dân làng trong cả năm ấy, Nõ Nường còn biến thái thành bánh dầy bánh cuốn để ăn làm thuốc phòng bệnh và đem biếu các làng như lễ hội múa mo của làng Sơn Đồng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội, với câu ca dao: “Sơn Đồng có hội múa mo/Bánh dầy bánh cuốn đem cho các làng”.
Từ khi dân tộc ta giành lại được quyền tự chủ theo các tư liệu, tục “múa mo” còn được diễn ra trong cung đình Hoa lư: Vua Lê Đại Hành sau yến tiệc còn xuống sân Rồng múa mo với quần thần, hoặc ở triều đình nhà Trần ở Thăng Long trong yến tiệc có người đội mo nang chỉ huy uống rượu. Việc múa mo của hai vương triều ấy là để diệt trừ mọi hiểm họa, bởi hai triều đó nhân nhân gọi là tranh ngôi của hai triều trước. Song việc làm đó bị sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử toàn thư phê rằng: “Sau này trong yến tiệc có người đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh thì lại càng thô bỉ lắm”. 
Việc nghiên cứu là phải hiểu được nguồn gốc và giá trị của một dòng lễ hội mang tính minh triết đó. Nhưng đáng tiếc là ngày nay người ta hễ thấy lễ hội “trò nhại” hoặc vật linh biểu tượng Nõ Nường thì gọi là “phồn thực” và giao phối. Kiểu nhận thức nông cạn như thế đã làm triệt tiêu một hệ thống văn hóa tư tưởng của dân tộc mà Tổ tiên của chúng ta đã dày công sáng tạo nên, biểu trương uy quyền của vua Hùng - Bức thông điệp gửi lại cho hậu thế.   
Hàng loạt biểu tượng Nõ Nường “lắp khít” nhau, không chỉ đặt ở nơi linh thiêng thờ cúng, mà còn đặt mọi nơi, mọi chốn, chỗ lấy nước ăn, ao hồ nơi tắm giặt, vùng rừng núi nơi săn bắt muông thú; người ta còn ký thác bằng các hiện vật “tảng đá”, “hòn kê” khắp mọi nơi, mọi chốn, kể cả các trụ đá nhô lên ngoài biển và trong đất liền như “đá ông Chồng bà Chồng” (Sầm Sơn, Thanh Hóa). Khi ký thác tư tưởng Nõ Nường “lắp khít” nhau vào các hiện vật ấy là người ta đã luyện thần chú, hô thần nhập tượng. Từ giờ phút ấy tảng đá được mang tinh thần của Nõ Nường “lắp khít” nhau sẽ trở thành vị “thần” như cột mốc - (giới tâm linh gọi là “ông Mốc”): Nhận lệnh của Thần hoàng làng ra chôn chân ở vị trí địa giới của hai, hoặc ba làng: Một tấc không đi một li không rời, canh giữ ruộng đất, hoa mầu của làng; Cột mốc (ông Mốc) của quốc gia cũng thế. 

Nguồn gốc “khăn Oa” của nữ quý tộc thời Hùng Vương

(Kiến Thức) - Ở Việt Nam, trong thời Hùng Vương, sự phân biệt giữa phụ nữ quý tộc và bình dân còn được thể hiện ngay ở chiếc khăn đội đầu...

Phụ nữ - một nửa dân số của nhân loại, họ không những chịu trách nhiệm sinh sản “giống nòi” mà còn mang tải trên mình bản sắc văn hóa của dân tộc. Chỉ cần nhìn vào sự trưng diện của giới phụ nữ là biết họ thuộc dân tộc nào.

Bí ẩn mỹ nhân khiến 6 ông hoàng “chết mê, chết mệt”

(Kiến Thức) - Trải qua sự tranh chấp quyết liệt của 6 đế vương, dường như sức quyến rũ mãnh liệt từ người con gái này không hề giảm sút theo năm tháng.

Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Tiêu hoàng hậu vốn là công chúa, cha là Hiếu Minh Đế Tiêu Khuy, nhà Tây Lương thời kỳ cuối của Nam Bắc triều. Vì sinh vào tháng 2 theo phong tục của địa phương thì bị lỗi mùa sinh nên nàng được giao cho đường đệ là Tiêu Ngập nuôi dưỡng. Sau khi dưỡng phụ bị bệnh qua đời nàng được cựu phụ Trương Kha nuôi dưỡng và sớm phải sống cuộc sống nghèo khổ. Nếu nhìn lại lịch sử thì thực tế Tiêu hoàng hậu quả thực là thiên sát tinh hạ phàm, nhưng những người khắc mệnh của nàng lại là phu quân chứ không phải là cha. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Năm lên 8 tuổi vận mệnh chi thần đã mỉm cười với nàng, lúc này Tùy Văn Đế Dương Kiên phát động chiến tranh với Trần triều người cầm binh chính là Tấn vương Dương Quảng, con trai thứ của ông ta. Quân vương của Trần quốc là Trần Thư Bảo ngu xuẩn, dốt nát nên Trần triều dễ dàng bị diệt vong. Tùy triều hoàn thành đại nghiệp thống nhất đất nước, Dương Kiên phong quân tấn tước cho Dương Quảng và hạ lệnh khắp trong thiên hạ những nhà nào có con gái chưa lấy chồng có bát tự hợp với Dương Quảng phải trình báo triều đình để chọn lập làm vương phi. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Ai ngờ chọn lên chọn xuống người xung kẻ khắc, cuối cùng chỉ còn lại có Tiêu công chúa lúc này mới tròn 9 tuổi có bát tự đại cát với bát tự của Tấn vương Dương Quảng, vì thế đương nhiên được chọn. Nhưng vì tuổi còn quá nhỏ nên tiến cung chưa thành thân ngay. Hoàng hậu vô cùng yêu thích cô con dâu bé bỏng nên đã nuôi dưỡng chăm sóc nàng như con đẻ. Bà cho mời rất nhiều thầy giỏi đến dạy nàng đọc sách, viết văn, hội họa, đàn hát. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
 Vốn tố chất thông minh hơn người, nàng học gì thạo đó, chỉ có vài năm sau  không những trở thành một tiểu tuyệt thế giai nhân mà còn tinh thông thư lễ, đa tài đa nghệ. Năm Dương Quảng 25 tuổi, hôn lễ được cử hành và nàng chính thức trở thành vương phi của Tấn vương. Vốn háo sắc nên Dương Quảng vô cùng yêu quý tân nương của mình. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Điều khiến Dương Quảng càng cảm thấy yêu quý và mãn nguyện khi có một đại tiên đã bói cho nàng một quẻ rằng: nàng sẽ là mẫu nghi thiên hạ. Nếu nàng đã làm mẫu nghi thiên hạ chẳng phải phu quân của nàng sẽ là hoàng đế sao? Tuy hiện nay thái tử là anh trai Dương Dũng nhưng thân vốn là dòng dõi vương gia thì Dương Quảng ôm mộng đế vương cũng là hết sức bình thường, vì thế Dương Quảng càng xem nàng là phúc tinh của đời mình và càng yêu thương trân trọng nàng. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Điều đáng tiếc là lời đại tiên chỉ nói một nửa, sau 4 từ “mẫu nghi thiên hạ” của đại tiên vẫn còn 4 chữ “ mệnh đới đào hoa” chưa nói nốt. Sau khi kết hôn, Dương Quảng đã nhanh chóng lôi kéo, câu kết với tể tướng Dương Tố và nhiều người khác bắt đầu chiến dịch tạo phản. Thái tử Dương Dũng thì mải đắm say nhan sắc của nàng chiêu nghi Thiên Bàng Vân bỏ mặc thái tử phi Nguyên thị. Vì không chịu nổi nỗi ấm ức nàng Nguyên thị đã thắt cổ tự vẫn. Dương Kiên và hoàng hậu đã tức giận phế bỏ ngôi thái tử của Dương Dũng và lập Dương Quảng làm thái tử.
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Sau này Dương Quảng đã dùng mưu kế cắt đứt được mấy anh em và cả cha mình để đăng cơ hoàng thượng và trở thành Tùy Dạng Đế nổi tiếng trong lịch sử, nàng cũng chính thức trở thành Tiêu hoàng hậu. Khi trở thành hoàng đế, Dương Quảng không tiếp tục đóng giả người chồng mẫu mực mà bỏ rơi Tiêu hoàng hậu, ra sức tuyển chọn các phi tần mĩ nữ tiến cung. Ông ta cho xây liền 16 viện tại Tây Uyển. Tiếp theo cho chọn 16 nàng cung nữ có nhan sắc đẹp nhất trong đám cung nữ phong làm tứ phẩm phu nhân chia đều ra 16 viện đồng thời chọn tiếp 320 nàng mĩ nữ chia 10 người 1 tổ cho học thổi đàn ca hát. Tiêu hoàng hậu vốn là người cứng rắn có bản lĩnh lại hiểu biết, nàng lại hiểu rõ tính phong lưu của chồng nên nàng đành phải làm ngơ mắt nhắm mắt mở vui vẻ mà sống.
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Coi trọng vui thú hưởng lạc, tất sẽ sao nhãng việc quốc gia đại sự. Dương Quảng tại vị được 10 mấy năm tuy chinh phục được rất nhiều mĩ nhân nhưng lại không giữ nổi giang sơn. Khi Dương Quảng đang say sưa du hí Dương Châu lần thứ 3 thì thiên hạ đã đại loạn. Lý Uyên, Lý Mật, Đậu Kiến Đức đã lần lượt khởi binh khiến Dương Quảng phải dời đô về Nam Kinh không dám quay lại phương bắc. Lúc này Vũ Văn Hóa Cập thống lĩnh cấm quân tạo phản dẫn quân nhập cung giết chết Tùy Dạng Đế, vốn đã thầm yêu Tiêu hoàng hậu từ lâu nên sau khi kế vị ông ta đã dùng tính mạng của con trai uy hiếp Tiêu hoàng hậu phải làm lẽ của mình. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Lúc này Đậu Kiến Đức đang bừng bừng chiến thắng ở Trung Nguyên nên tiến thẳng về Giang Đô, Vũ Văn Hóa Cập không chống đỡ nổi nên đã thất bại dẫn theo Tiêu hoàng hậu lui về cố thủ tại Ngụy huyện. Vũ Văn Hóa Cập tự xưng là Hứa đế đồng thời đổi Tiêu hoàng hậu là thục phi. Không lâu sau Ngụy huyện cũng bị công phá cuối cùng Vũ Văn Hóa Cập bị giết chết khi lui về Liêu thành. Ngoài vơ vét của cải, Đậu Kiến Đức còn thu nạp luôn Tiêu hoàng hậu. Tuy đã 2 lần là quả phụ nhưng nhan sắc, khí chất và sức hấp dẫn của Tiêu hoàng hậu thì không hề giảm. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Đậu Kiến Đức lập nàng làm vương phi ngày đêm chìm đắm trong vui thú hưởng lạc mà gần như quên đi mất mục đích ban đầu của mình khi ở Trung Nguyên. Lúc này thế lực của quân Đột Quyết ở phương bắc càng ngày càng mạnh và uy hiếp đến Trung Nguyên. Hóa ra em gái của Tùy Dạng Đế được gả cho Đột Quyết Khả Hãn Hòa Thân, nghe nói Lý Uyên đã xưng đế tại Trường An,  lại nghe được tung tích của Tiêu hoàng hậu bèn phái sứ giả đến Lạc Thọ nghênh đón Tiêu hoàng hậu. 
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Đậu Kiến Đức không dám ra mặt phản đối quân Đột Quyết đành phải ngoan ngoãn giao Tiêu hoàng hậu và người trong hoàng tộc cho sứ giả. Sau bao lần chuyển đi đổi lại Tiêu hoàng hậu cũng không thể ngờ được rằng có ngày mình lại đến sống với người Đột Quyết. Tuy vậy sức hấp dẫn và quyến rũ của nàng không hề thua kém bất cứ sự sắc bén của ngọn gươm lưỡi kiếm nào. Nàng trở thành ái phi của Sử La Khả Hãn, sau khi ông ta mất nàng lại trở thành vợ Hiệt Lợi Khả Nhãn.
Bi an my nhan khien 6 ong hoang
Năm thứ 4 Đường Thái Tông Trinh Quán, Đường Thái Tông đã phái đại tướng Lý Tĩnh đại phá quân Đột Quyết và người đàn bà đã trải qua 5 đời chồng Tiêu hoàng hậu lại trở thành chiến lợi phẩm dâng lên Lý Thế Dân. Khi gặp Lý Thế Dân Tiêu hoàng hậu đã 48 tuổi còn Lý Thế Dân mới 33 tuổi nhưng khi lần đầu tiên nhìn thấy bà, Lý Thế Dân đã bị chinh phục hoàn toàn.  Vốn là người có nhan sắc lại rất thông minh, khôn khéo nên Lý Thế Dân vô cùng kính trọng và yêu thương bà. Tiêu Hoàng hậu đã sống 18 năm bình yên trong hậu cung nhà Đường và qua đời ở tuổi 67 khép lại một cuộc đời hồng nhan đầy gian truân.













Sách ảnh siêu hiếm về Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1900 (1)

(Kiến Thức) - Nữ diễn viên trong nhà hát, đám tang người giàu, hội quán Tuệ Thành... là những bức ảnh độc đáo trong ấn phẩm "Saigon et ses environs Cochinchine".

Sach anh sieu hiem ve Sai Gon - Cho Lon nam 1900 (1)
Bìa sách ảnh "Saigon et ses environs Cochinchine" (Sài Gòn và cùng phụ cận - Nam Kỳ), tập hợp những tác phẩm tiêu biểu do nhiếp ảnh Pháp Dieulefils chụp ở Sài Gòn - Chợ Lớn cuối thế kỷ 19, xuất bản năm 1990. Hình ảnh được đăng tải trên trang Belleindochine.free.fr.

Đọc nhiều nhất

Tin mới