Nấm bàn chân: là một dạng bệnh gây ngứa, tấy đỏ và nứt da ở kẽ các ngón chân. Vi khuẩn có thể thâm thập qua các vết nứt trên da và gây nhiễm trùng. Để trị bệnh này, có thể dùng thuốc trị nấm (dạng uống hoặc dạng kem).Nhiễm trùng do nấm móng chân: Móng chân bị nhiễm nấm có thể thay đổi màu sắc (nâu vàng hoặc mờ đục), dày, giòn và dễ vỡ. Trong một số trường hợp, móng chân bị bong ra. Môi trường tối tăm, ẩm thấp trong giày hoặc một vết thương ở móng chân tạo điều kiện cho bệnh nấm phát triển. Đây là một bệnh khó trị. Các lại thuốc bôi chỉ giúp tiêu diệt 1 lượng nhỏ nấm. Một số phương pháp điều trị khác là dùng thuốc uống hoặc loại bỏ các mô móng bị hỏng theo định kỳ.Chai chân: là sự hình thành lớp dày sừng ở mặt dưới của bàn chân. Bệnh do trọng lượng phân bổ không đều lên phần gót chân, đi giày dép không đúng kích cỡ hoặc do một bất thường về da. Chai chân ở một mức độ nhất định được đánh giá là bình thường. Tuy nhiên, chai chân do biến chứng tiểu đường cần phải được điều trị. Một số lưu ý như: dùng đá bọt để loại bỏ các mô sừng sau khi tắm, đi lót giày, tuyệt đối không dùng dao hoặc vật nhọn để cậy lớp sừng.Bệnh mắt cá chân: là một tổn thương dày sừng tại khu vực xương của ngón chân hoặc giữa các ngón chân. Bệnh thường do các ngón chân bị cọ xát khi đi giày dép hoặc ma-xát giữa các ngón chân. Cần lưu ý: dùng đá bọt để nhẹ nhàng loại bỏ lớp mô sừng sau khi tắm, không tự ý dùng thuốc để điều trị, không dùng vật nhọn để loại bỏ lớp sừng.Rộp da: Mang giày không đúng kích cỡ hoặc đi giày không đi tất có thể gây rộp da, dẫn tới nhiễm trùng. Trong quá trình điều trị, điều quan trọng là không được bóc vùng da bị rộp. Lớp da này có chức năng bảo vệ vết rộp không bị nhiễm trùng. Kem chống khuẩn, băng gạc mềm và sạch sẽ giúp bảo vệ da và ngăn nhiễm trùng.Viêm bao hoạt dịch ngón chân cái: Bệnh có thể hình thành ở 1 hoặc cả 2 chân, thường do đi đi giày cao gót với không gian dành cho phần ngón hẹp. Sử dụng miếng lót bằng nỉ hoặc nhựa bọt có thể hạn chế cảm giác khó chịu mà bệnh mang lại. Nếu bệnh gây ra cảm giác đau dữ dội hoặc biến dạng, cần phải tiến hành phẫu thuật.Khô da: Vùng da khô có thể bị nứt, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Sử dụng kem dưỡng ấm có thể giúp da mềm và giữ độ ẩm.Loét bàn chân: là một vết rách lớn hoặc sâu trên da, có thể nhiễm trùng. Loét chân có thể là hậu quả của các vết xây xước nhỏ, vết cắt chậm liền hoặc do đi giày không vừa chân. Khi bị loét chân, cần phải điều trị sớm.Ngón chân khoằm xuống: là hậu quả của tình trạng cơ bị yếu, khiến dây chằng ngắn hơn, làm ngón chân bị cong xuống dưới. Bệnh có thể do đi giày quá chật. Bệnh gây khó khăn trong việc đi lại và có thể dẫn tới những vấn đề khác với bàn chân như rộp da, chai bàn chân. Dùng nẹp xương và đi giày dép đúng kích cỡ có thể khắc phục tình trạng này. Một số trường hợp phải tiến hành phẫu thuật.Móng chọc vào thịt: tạo áp lực và gây đau đớn ở các cạnh móng chân. Cạnh của móng chân có thể cứa vào da, gây tất đỏ, sưng, đau và nhiễm trùng. Nguyên nhân gây bệnh là do áp lực khi đi giày, cắt tỉa móng chân không đúng cách và các vết thương bị tái lại nhiều lần trong lúc chạy, nhảy hoặc tập luyện.Mụn cóc: có thể xuất hiện các lỗ nhỏ hoặc các điểm đen ở giữa mụn. Mụn cóc gây đau, có thể phát triển đơn lẻ hoặc thành cụm. Bệnh do một loại virus làm nhiễm trùng lớp da ngoài của lòng bàn chân.Cách phòng chống: Tuân thủ lời khuyên của bác sĩ về chế độ dinh dưỡng, tập luyện, thuốc thang và cố gắng duy trì lượng glucose trong máu trong khoảng giới hạn mà bác sĩ khuyến cao.Kiểm tra bàn chân hàng ngày để phát hiện kịp thời các vết rộp, tấy đỏ, chai hoặc bất cứ các triệu chứng khác đã được liệt kê.Rửa sạch chân bằng nước ấm mỗi ngày, dùng xà bông loại nhẹ. Không ngâm chân lâu, lau khô chân, nhất là giữa các ngón chân. Nếu như da ở bàn chân bị khô, nên bôi kem dưỡng ẩm sau khi rửa và lau khô bàn chân. Không bôi kem giữa các ngón chân.Dùng dũa hoặc đá bọt nhẹ nhàng làm nhẵn vùng da bị chai sau khi tắm khi da đang mềm và chưa bị khô. Khi dùng dũa, chỉ nên dũa theo 1 hướng nhất định.Kiểm tra móng chân một tuần một lần. Cắt tỉa móng chân theo đường thẳng, không làm tròn các góc móng chân hoặc cắt sáng phía mé bên của móng chân. Sau khi cắt, nên dùng dũa để làm nhẵn móng chân.Luôn đi tất mềm, có độ đàn hồi và vừa với bàn chân. Đi tất vào ban đêm nếu bàn chân bị lạnh. Không đi dép xăng-đan hoặc chân trần, ngay cả khi đi trong nhà. Đi giày đúng kích cỡ, nên chọn giày làm bằng vải canvas hoặc giày da. Nên chuẩn bị sẵn một vài đôi giày rộng cỡ để tạo nhiều không gian hơn cho bàn chân, nhất là với những người bị dị tật ở chân.Duy trì lượng máu lưu thông tới bàn chân. Gác chân lên cao khi ngồi, cử động các ngón chân và mắt cá chân vài lần một ngày, không vắt chéo chân quá lâu. Không nên hút thuốc. Thuốc lá có thể cản trở quá trình lưu thông máu. Đi khám bàn chân 2-3 tháng một lần, ngay cả khi không gặp vấn đề gì về bàn chân.Đi khám khi xuất hiện các triệu chứng sau: Màu sắc, nhiệt độ trên da thay đổi, sưng ở bàn chân hoặc mắt cá chân, đau ở cẳng chân hoặc bất cứ triệu chứng nào đã được liệt kê ở phía trên.
Nấm bàn chân: là một dạng bệnh gây ngứa, tấy đỏ và nứt da ở kẽ các ngón chân. Vi khuẩn có thể thâm thập qua các vết nứt trên da và gây nhiễm trùng. Để trị bệnh này, có thể dùng thuốc trị nấm (dạng uống hoặc dạng kem).
Nhiễm trùng do nấm móng chân: Móng chân bị nhiễm nấm có thể thay đổi màu sắc (nâu vàng hoặc mờ đục), dày, giòn và dễ vỡ. Trong một số trường hợp, móng chân bị bong ra. Môi trường tối tăm, ẩm thấp trong giày hoặc một vết thương ở móng chân tạo điều kiện cho bệnh nấm phát triển. Đây là một bệnh khó trị. Các lại thuốc bôi chỉ giúp tiêu diệt 1 lượng nhỏ nấm. Một số phương pháp điều trị khác là dùng thuốc uống hoặc loại bỏ các mô móng bị hỏng theo định kỳ.
Chai chân: là sự hình thành lớp dày sừng ở mặt dưới của bàn chân. Bệnh do trọng lượng phân bổ không đều lên phần gót chân, đi giày dép không đúng kích cỡ hoặc do một bất thường về da. Chai chân ở một mức độ nhất định được đánh giá là bình thường. Tuy nhiên, chai chân do biến chứng tiểu đường cần phải được điều trị. Một số lưu ý như: dùng đá bọt để loại bỏ các mô sừng sau khi tắm, đi lót giày, tuyệt đối không dùng dao hoặc vật nhọn để cậy lớp sừng.
Bệnh mắt cá chân: là một tổn thương dày sừng tại khu vực xương của ngón chân hoặc giữa các ngón chân. Bệnh thường do các ngón chân bị cọ xát khi đi giày dép hoặc ma-xát giữa các ngón chân. Cần lưu ý: dùng đá bọt để nhẹ nhàng loại bỏ lớp mô sừng sau khi tắm, không tự ý dùng thuốc để điều trị, không dùng vật nhọn để loại bỏ lớp sừng.
Rộp da: Mang giày không đúng kích cỡ hoặc đi giày không đi tất có thể gây rộp da, dẫn tới nhiễm trùng. Trong quá trình điều trị, điều quan trọng là không được bóc vùng da bị rộp. Lớp da này có chức năng bảo vệ vết rộp không bị nhiễm trùng. Kem chống khuẩn, băng gạc mềm và sạch sẽ giúp bảo vệ da và ngăn nhiễm trùng.
Viêm bao hoạt dịch ngón chân cái: Bệnh có thể hình thành ở 1 hoặc cả 2 chân, thường do đi đi giày cao gót với không gian dành cho phần ngón hẹp. Sử dụng miếng lót bằng nỉ hoặc nhựa bọt có thể hạn chế cảm giác khó chịu mà bệnh mang lại. Nếu bệnh gây ra cảm giác đau dữ dội hoặc biến dạng, cần phải tiến hành phẫu thuật.
Khô da: Vùng da khô có thể bị nứt, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Sử dụng kem dưỡng ấm có thể giúp da mềm và giữ độ ẩm.
Loét bàn chân: là một vết rách lớn hoặc sâu trên da, có thể nhiễm trùng. Loét chân có thể là hậu quả của các vết xây xước nhỏ, vết cắt chậm liền hoặc do đi giày không vừa chân. Khi bị loét chân, cần phải điều trị sớm.
Ngón chân khoằm xuống: là hậu quả của tình trạng cơ bị yếu, khiến dây chằng ngắn hơn, làm ngón chân bị cong xuống dưới. Bệnh có thể do đi giày quá chật. Bệnh gây khó khăn trong việc đi lại và có thể dẫn tới những vấn đề khác với bàn chân như rộp da, chai bàn chân. Dùng nẹp xương và đi giày dép đúng kích cỡ có thể khắc phục tình trạng này. Một số trường hợp phải tiến hành phẫu thuật.
Móng chọc vào thịt: tạo áp lực và gây đau đớn ở các cạnh móng chân. Cạnh của móng chân có thể cứa vào da, gây tất đỏ, sưng, đau và nhiễm trùng. Nguyên nhân gây bệnh là do áp lực khi đi giày, cắt tỉa móng chân không đúng cách và các vết thương bị tái lại nhiều lần trong lúc chạy, nhảy hoặc tập luyện.
Mụn cóc: có thể xuất hiện các lỗ nhỏ hoặc các điểm đen ở giữa mụn. Mụn cóc gây đau, có thể phát triển đơn lẻ hoặc thành cụm. Bệnh do một loại virus làm nhiễm trùng lớp da ngoài của lòng bàn chân.
Cách phòng chống: Tuân thủ lời khuyên của bác sĩ về chế độ dinh dưỡng, tập luyện, thuốc thang và cố gắng duy trì lượng glucose trong máu trong khoảng giới hạn mà bác sĩ khuyến cao.
Kiểm tra bàn chân hàng ngày để phát hiện kịp thời các vết rộp, tấy đỏ, chai hoặc bất cứ các triệu chứng khác đã được liệt kê.
Rửa sạch chân bằng nước ấm mỗi ngày, dùng xà bông loại nhẹ. Không ngâm chân lâu, lau khô chân, nhất là giữa các ngón chân. Nếu như da ở bàn chân bị khô, nên bôi kem dưỡng ẩm sau khi rửa và lau khô bàn chân. Không bôi kem giữa các ngón chân.
Dùng dũa hoặc đá bọt nhẹ nhàng làm nhẵn vùng da bị chai sau khi tắm khi da đang mềm và chưa bị khô. Khi dùng dũa, chỉ nên dũa theo 1 hướng nhất định.
Kiểm tra móng chân một tuần một lần. Cắt tỉa móng chân theo đường thẳng, không làm tròn các góc móng chân hoặc cắt sáng phía mé bên của móng chân. Sau khi cắt, nên dùng dũa để làm nhẵn móng chân.
Luôn đi tất mềm, có độ đàn hồi và vừa với bàn chân. Đi tất vào ban đêm nếu bàn chân bị lạnh. Không đi dép xăng-đan hoặc chân trần, ngay cả khi đi trong nhà. Đi giày đúng kích cỡ, nên chọn giày làm bằng vải canvas hoặc giày da. Nên chuẩn bị sẵn một vài đôi giày rộng cỡ để tạo nhiều không gian hơn cho bàn chân, nhất là với những người bị dị tật ở chân.
Duy trì lượng máu lưu thông tới bàn chân. Gác chân lên cao khi ngồi, cử động các ngón chân và mắt cá chân vài lần một ngày, không vắt chéo chân quá lâu.
Không nên hút thuốc. Thuốc lá có thể cản trở quá trình lưu thông máu.
Đi khám bàn chân 2-3 tháng một lần, ngay cả khi không gặp vấn đề gì về bàn chân.
Đi khám khi xuất hiện các triệu chứng sau: Màu sắc, nhiệt độ trên da thay đổi, sưng ở bàn chân hoặc mắt cá chân, đau ở cẳng chân hoặc bất cứ triệu chứng nào đã được liệt kê ở phía trên.