Đại đội E là một đơn vị dù nổi tiếng của Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mặc dù chỉ tham chiến chính thức từ năm 1944 khi Mỹ mở mặt trận thứ hai ở châu Âu, tuy nhiên danh sách công trạng của họ trong chưa đầy một năm trước khi chiến tranh kết thúc là "dài dằng dặc". Nguồn ảnh: Warhistory.Đại đội E thuộc Lữ đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh dù 506, Sư đoàn dù 101. Bản thân sư đoàn dù 101 đã là một đơn vị cực kỳ ác mộng với phát xít Đức và thậm chí họ còn có tên gọi biệt danh là "Tiếng thét Đại bàng". Nguồn ảnh: Warhistory.Được thành lập từ năm 1942 tại Trại Toccoa, bang Georgia, Mỹ. Đại đội E được huấn luyện để trở thành đơn vị tác chiến độc lập, có nhiệm vụ nhảy dù sâu vào lãnh thổ địch và đánh "từ trong ra ngoài". Nguồn ảnh: Warhistory.Tổng cộng trong toàn cuộc chiến, Đại đội E đã tham chiến ở Pháp, Hà Lan và Đức - ba chiến trường ác liệt nhất ở mặt trận phía Tây. Nguồn ảnh: Warhistory.Trên giấy tờ, Đại đội Easy có tổng cộng 140 lính. Trong toàn cuộc chiến, tổng cộng đã có 162 lính và sĩ quan chỉ huy được gia nhập lực lượng này - bao gồm cả lực lượng thay thế cho thương binh và tử sĩ. Nguồn ảnh: Warhistory.Cơ cấu tổ chức của Đại đội E cũng có đôi chút khác biệt, bao gồm 3 trung đội súng trường với mỗi trung đội bao gồm 3 tiểu đội súng trường (12 người) và một tiểu đội cối (6 người). Nguồn ảnh: Warhistory.Khi thực chiến trên chiến trường, mỗi tiểu đội súng trường của Đại đội E được trang bị thêm một súng máy và mỗi tiểu đội súng cối sẽ được trang bị thêm một khẩu súng cối 60mm để tăng cường hoả lực. Nguồn ảnh: Warhistory.Quá trình huấn luyện của Đại đội E kéo dài từ năm 1942 tới năm 1944 - nghĩa là dài gấp đôi thời gian thực tế họ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai. Khoảng thời gian huấn luyện dài 2 năm này đã biến những công tử bột thành những chiến binh thực thụ. Nguồn ảnh: Warhistory.Trong hồi ký của mình, những sĩ quan chỉ huy và binh lính Đại đội E luôn nhắc tới "ngọn đồi ác mộng" với họ mang tên Currahee. Đây là ngọn đồi cao, dốc, cạnh khu huấn luyện và khẩu lệnh "3 dặm chạy lên, 3 dặm chạy xuống" luôn là nỗi ác mộng với mọi người lính Đại đội E trong suốt hai năm huấn luyện. Nguồn ảnh: Warhistory.Đội hình khi chạy huấn luyện của Đại đội E cũng khác hoàn toàn với đội hình chạy của toàn bộ Lục quân Mỹ thời bấy giờ. Cụ thể, đại đội E chạy theo 3 hoặc 4 hàng để giảm bớt độ dài của toàn đội hình, qua đó sĩ quan chỉ huy có thể nắm bắt tốt hơn tình hình của từng binh lính trong thời gian di chuyển. Kiểu đội hình huấn luyện này sau đó đã được Lục quân Mỹ sử dụng trong toàn quân vào năm 1960 và tới nay vẫn được sử dụng. Nguồn ảnh: Warhistory.Những trận đánh nổi tiếng nhất mà Đại đội E từng tham dự bao gồm chiến dịch Overload - hay còn gọi là D-Day diễn ra ở Pháp. Cuộc đổ bộ xuống đất Hà Lan vào tháng 9 năm 1944 và trận chiến ở Bulge - chiến dịch quân sự cuối cùng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai mà Đại đội E được tham gia. Nguồn ảnh: Warhistory.Sau khi chiến tranh kết thúc, Đại đội E được giao nhiệm vụ canh giữ, giải giáp tàn quân địch và bảo vệ an ninh khu vực Berchtesgaden - quê nhà của Hitler và sau đó đại đội hành quân xuống Áo. Nguồn ảnh: Warhistory.Tháng 11/1945, Trung đoàn 506 giải tán, với tư cách là một phần của Trung đoàn 506, Đại đội E, Lữ đoàn 2 cũng giải tán theo. Tuy nhiên tới năm 1954, Đại đội E được tái lập cùng Trung Đoàn 506 và hoạt động tới tận ngày nay. Nguồn ảnh: Warhistory. Mời độc giả xem Video: Bộ trang bị nặng 30 kg của lính Dù Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai bao gồm những gì?
Đại đội E là một đơn vị dù nổi tiếng của Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mặc dù chỉ tham chiến chính thức từ năm 1944 khi Mỹ mở mặt trận thứ hai ở châu Âu, tuy nhiên danh sách công trạng của họ trong chưa đầy một năm trước khi chiến tranh kết thúc là "dài dằng dặc". Nguồn ảnh: Warhistory.
Đại đội E thuộc Lữ đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh dù 506, Sư đoàn dù 101. Bản thân sư đoàn dù 101 đã là một đơn vị cực kỳ ác mộng với phát xít Đức và thậm chí họ còn có tên gọi biệt danh là "Tiếng thét Đại bàng". Nguồn ảnh: Warhistory.
Được thành lập từ năm 1942 tại Trại Toccoa, bang Georgia, Mỹ. Đại đội E được huấn luyện để trở thành đơn vị tác chiến độc lập, có nhiệm vụ nhảy dù sâu vào lãnh thổ địch và đánh "từ trong ra ngoài". Nguồn ảnh: Warhistory.
Tổng cộng trong toàn cuộc chiến, Đại đội E đã tham chiến ở Pháp, Hà Lan và Đức - ba chiến trường ác liệt nhất ở mặt trận phía Tây. Nguồn ảnh: Warhistory.
Trên giấy tờ, Đại đội Easy có tổng cộng 140 lính. Trong toàn cuộc chiến, tổng cộng đã có 162 lính và sĩ quan chỉ huy được gia nhập lực lượng này - bao gồm cả lực lượng thay thế cho thương binh và tử sĩ. Nguồn ảnh: Warhistory.
Cơ cấu tổ chức của Đại đội E cũng có đôi chút khác biệt, bao gồm 3 trung đội súng trường với mỗi trung đội bao gồm 3 tiểu đội súng trường (12 người) và một tiểu đội cối (6 người). Nguồn ảnh: Warhistory.
Khi thực chiến trên chiến trường, mỗi tiểu đội súng trường của Đại đội E được trang bị thêm một súng máy và mỗi tiểu đội súng cối sẽ được trang bị thêm một khẩu súng cối 60mm để tăng cường hoả lực. Nguồn ảnh: Warhistory.
Quá trình huấn luyện của Đại đội E kéo dài từ năm 1942 tới năm 1944 - nghĩa là dài gấp đôi thời gian thực tế họ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai. Khoảng thời gian huấn luyện dài 2 năm này đã biến những công tử bột thành những chiến binh thực thụ. Nguồn ảnh: Warhistory.
Trong hồi ký của mình, những sĩ quan chỉ huy và binh lính Đại đội E luôn nhắc tới "ngọn đồi ác mộng" với họ mang tên Currahee. Đây là ngọn đồi cao, dốc, cạnh khu huấn luyện và khẩu lệnh "3 dặm chạy lên, 3 dặm chạy xuống" luôn là nỗi ác mộng với mọi người lính Đại đội E trong suốt hai năm huấn luyện. Nguồn ảnh: Warhistory.
Đội hình khi chạy huấn luyện của Đại đội E cũng khác hoàn toàn với đội hình chạy của toàn bộ Lục quân Mỹ thời bấy giờ. Cụ thể, đại đội E chạy theo 3 hoặc 4 hàng để giảm bớt độ dài của toàn đội hình, qua đó sĩ quan chỉ huy có thể nắm bắt tốt hơn tình hình của từng binh lính trong thời gian di chuyển. Kiểu đội hình huấn luyện này sau đó đã được Lục quân Mỹ sử dụng trong toàn quân vào năm 1960 và tới nay vẫn được sử dụng. Nguồn ảnh: Warhistory.
Những trận đánh nổi tiếng nhất mà Đại đội E từng tham dự bao gồm chiến dịch Overload - hay còn gọi là D-Day diễn ra ở Pháp. Cuộc đổ bộ xuống đất Hà Lan vào tháng 9 năm 1944 và trận chiến ở Bulge - chiến dịch quân sự cuối cùng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai mà Đại đội E được tham gia. Nguồn ảnh: Warhistory.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Đại đội E được giao nhiệm vụ canh giữ, giải giáp tàn quân địch và bảo vệ an ninh khu vực Berchtesgaden - quê nhà của Hitler và sau đó đại đội hành quân xuống Áo. Nguồn ảnh: Warhistory.
Tháng 11/1945, Trung đoàn 506 giải tán, với tư cách là một phần của Trung đoàn 506, Đại đội E, Lữ đoàn 2 cũng giải tán theo. Tuy nhiên tới năm 1954, Đại đội E được tái lập cùng Trung Đoàn 506 và hoạt động tới tận ngày nay. Nguồn ảnh: Warhistory.
Mời độc giả xem Video: Bộ trang bị nặng 30 kg của lính Dù Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai bao gồm những gì?