Nhà Hán, La Mã và vấn đề kế thừa ngai vị
Nhà Hán và La Mã là hai đế quốc tiêu biểu của văn minh nhân loại cổ đại, và thường được giới sử học đưa ra khi so sánh văn minh phương Đông và phương Tây.
Năm 146 TCN, sau chiến tranh Macedonian lần 4, La Mã trở thành một quốc gia rộng lớn trải dài từ châu Âu đến châu Á qua châu Phi, xưng bá Địa Trung Hải. Sau đó, trải qua các cuộc nội chiến liên tiếp, qua các thời kì Lucius Cornelius Sulla độc tài và Julius Caesar, cuối cùng La Mã trở thành đế quốc khổng lồ vào thời Hoàng đế Augustus.
Đế quốc La Mã và triều Hán có rất nhiều điểm tương đồng. Bên cạnh quân sự vô cùng hùng mạnh, 2 quốc gia này còn có điểm chung là nền văn minh, nghệ thuật và văn hóa rất phong phú. Ngoài ra, hai quốc gia cổ đại này đều có tập tục lấy người cha làm người đứng đầu gia tộc, có chế độ luật pháp tương đối hoàn chỉnh.
Tuy hai đế quốc này khá tương đồng nhưng chúng lại có một điểm khác biệt rất lớn. Khi lật trang sử La Mã, điều đầu tiên chúng ta cảm nhận được chính là các trận chiến đẫm máu vì đế quốc này trường kỳ bị vây trong chiến loạn. Trái lại, triều Hán nổi bật với chế độ kêu gọi nhập ngũ toàn diện, ngay cả con trai Tể tướng cũng phải tòng quân, nhưng trên phương diện văn hóa lại thể hiện trạng thái ôn hòa và bình thản.
Vì sao người La Mã lại hay phát động chiến tranh như vậy? Đương nhiên có nguyên nhân là vì các cuộc xâm lược, nhưng nguyên nhân chủ yếu là vì đế quốc này không giải quyết được vần đề kế thừa đế vị.
Trong lịch sử đế quốc La Mã, nhiều lần xảy ra chuyện vệ binh giết vua, tùy ý ủng hộ lập tân hoàng đế, hay người thừa kế không thể phục chúng, dẫn đến nội chiến. Vì vậy các bậc đế vương thường nhận tướng lãnh hung hãn làm con nuôi để bình ổn quân đội hoặc xoa dịu sự bất mãn của tướng lãnh quân sự. Dần dà, đa phần chính quyền do kiêu binh hãn tướng thao túng, hoặc có thể chính đế vương ham chiến, khiến La Mã tràn ngập sự cường liệt. Mỗi lần chính quyền thay vua thì càng khó tránh khỏi xuất hiện một trận phong ba, tranh chấp.
Quy chế kế thừa ngai vị là nguyên nhân của tam cung lục viện
Nhà Hán và các triều đại sau đó giải quyết vấn đề kế vị như thế nào? Đó chính là dựa vào quy chế Đích trưởng tử (con trai cả) kế thừa được sáng lập vào đời Chu. Người Chu rất coi trọng việc tế tự đối với tổ tiên, người tế tổ phải là gia trưởng trong một gia tộc. Người kế thừa tế tự gọi là “đích xuất” (con trai cả của vợ lớn). Con trai cả của vợ bé thì gọi là “thứ xuất”. Nếu vợ cả có con trai thì lập con trai của vợ cả, nếu không có thì lập con trai của vợ bé.
Cách kế vị này khiến xã hội không còn phân vân về người thừa kế, vì vậy trong quá trình truyền ngôi tương đối ít xảy ra nội loạn quy mô lớn, mà việc lập thái tử sớm cũng có lợi cho chuyện rèn luyện bậc Đế vương tương lai.
Đích trưởng tử kế thừa là một quy chế hoàn chỉnh, giúp giữ gìn lễ tiết trật tự đích thứ. Nói chung, khi Hoàng đế có con nối dõi đầy đủ, quy chế này sẽ bảo đảm có người kế thừa vương vị. Nó cũng là một trong những điểm quan trọng duy trì một triều đại ở phương Đông.
Như vậy, nếu Hoàng đế đương triều khuyết thiếu con nối dõi thì sẽ như thế nào? Nhiều người sẽ nghĩ, Hoàng đế có nhiều thê thiếp như vậy làm sao có thể xảy ra chuyện này, nhưng thực tế nó vẫn có thể xảy ra.
Cả Đông Hán và Tây Hán đều diệt vong vì Hoàng đế không có con nối dõi. Thời Tây Hán, Hán Thành Đế nhiều năm không có con trai, cuối đời đành phải lập Lưu Hân (cháu trai) làm Thái tử. Tuy nhiên, sau khi kế vị trở thành Hán Ai Đế, Lưu Hân lại là kẻ đồng tính luyến ái. Đến năm 26 tuổi thì qua đời mà không có con nối dõi, tạo cơ hội cho ngoại thích Vương Mãng lộng quyền, cuối cùng soán ngôi.
Tình huống thời Đông Hán còn xấu hơn. Đây là triều đại có nhiều tiểu Hoàng đế nhất trong lịch sử Trung Hoa. Rất nhiều Hoàng đế chưa đầy 10 tuổi đã băng hà, người tại vị lâu dài nhất như Hán Hoàn Đế cũng không có con nối dõi. Vì thế, Đậu Hoàng hậu đành phải lập cháu 5 đời của Hán Chương Đế lên ngôi trở thành Hán Linh Đế. Vì tân đế còn nhỏ tuổi nên Hoàng hậu lâm triều nhiếp chính, từ đó ngoại thích nắm quyền hành. Sau khi Đậu Hoàng hậu rút lui, nhà mẹ ruột của Hán Linh Đế lộng hành, cuối cùng cũng là ngoại thích làm hỏng chính sự, đẩy Đông Hán vào con đường diệt vong.
Quy chế Đích trưởng tử thừa kế kỳ thực đã giúp giảm bớt nhiều nhiễu nhương cho quốc gia và cực khổ cho dân chúng. Mà để đảm bảo có đầy đủ “người ứng cử hoàng đế” thì nhà vua phải có nhiều thê thiếp.
Hậu phi có phải là để thỏa mãn dục vọng của Hoàng đế? Kỳ thực không hẳn như thế, vì việc Hoàng đế sủng hạnh hậu phi nào cũng bị quản lý chặt chẽ. Ít nhất sử sách cho thấy Hoàng đế triều Minh – Thanh đều bị quản lý về phương diện này. Hoàng đế Khang Hy đã thiết lập “Kính sự đình”, lại cho thái giám ghi chép lại những lần sủng hạnh hậu phi của Hoàng đế, một mặt là bảo đảm hậu phi mang thai đúng con của Hoàng đế, mặt khác là để ước thúc Hoàng đế rằng việc phát tiết dục vọng của họ đều bị ghi chép lại.
Đương nhiên, Trung Hoa cũng có một số triều đại hỗn loạn, Hoàng đế hoang dâm vô độ, nhưng phần lớn các triều đại, quy chế hậu cung là rất nghiêm cẩn.