James Edgar "Johnnie" Johnson sinh ngày 9/3/1915 tại Barrow-upon-Soar, Leicestershire. Phi công đại tài này là con trai của cảnh sát Alfred Johnson. Cha của ông từng chia sẻ với con trai rằng: "Con sẽ thành công khi làm cảnh sát hay phi công".
Ít ai có thể biết được rằng, "Johnnie" Johnson đã 3 lần xin gia nhập Không quân Hoàng gia Anh (RAF) năm 1938 nhưng đều không thành công. Sau đó, ông bắt đầu theo học khóa huấn luyện phi công năm 1939. Sau đó, ông được giao nhiệm vụ phục vụ trong phi đội bay 616 trong Trận chiến nước Anh.
Tuy nhiên, sau một vài nhiệm vụ, những chấn thương ở vai khiến "Johnnie" Johnson bị điều về hậu phương để điều trị. Sau khi ở bệnh viện điều trị một thời gian, ông quay trở lại phi đội bay 616 hoạt động vào mùa xuân năm 1941.
Khi đó, chỉ huy phi đội là phi công huyền thoại Douglas Bader. Ông là người được Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ năm 1976.
"Chỉ huy Douglas Bader đã dạy chúng tôi về lòng dũng cảm, sự quyết tâm", "Johnnie" Johnson chia sẻ. Phi công "Johnnie" Johnson từng có cơ hội được bay cùng chỉ huy Douglas Bader (1910 – 1982).
Sau đó, "Johnnie" Johnson được giao nhiệm vụ chỉ huy phi đội bay 610 Squadron vào tháng 7/1942 và bắn hạ được nhiều máy bay địch.
Tính đến cuối tháng 6/1944, chiến tích mà phi công "Johnnie" Johnson đạt được đã vượt qua kỷ lục bắn hạ 32 máy bay của phi công "Sailor" Mala, tức 34 máy bay của phát xít Đức. Trong suốt cuộc chiến, phi công Johnson đã thực hiện hơn 1.000 nhiệm vụ bay mà chưa lần nào bị bắn rơi.
Sau Chiến tranh thế giới 2, "Johnnie" Johnson làm nhiệm vụ ở bán đảo Triều Tiên khi xảy ra chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc. Ông đã chiến đấu cùng Không quân Mỹ.
Phi công tài ba của xứ sở sương mù đã vinh dự được Anh và Mỹ trao tặng nhiều giải thưởng, huân chương vì những cống hiến cho đất nước và hòa bình thế giới.
"Johnnie" Johnson còn viết nhiều cuốn sách kể về sự nghiệp nhà binh cũng như những chiến tích sáng chói của mình. Ngày 30/5/2001, ông qua đời vì căn bệnh ung thư.
James Edgar "Johnnie" Johnson sinh ngày 9/3/1915 tại Barrow-upon-Soar, Leicestershire. Phi công đại tài này là con trai của cảnh sát Alfred Johnson. Cha của ông từng chia sẻ với con trai rằng: "Con sẽ thành công khi làm cảnh sát hay phi công".
Ít ai có thể biết được rằng, "Johnnie" Johnson đã 3 lần xin gia nhập Không quân Hoàng gia Anh (RAF) năm 1938 nhưng đều không thành công. Sau đó, ông bắt đầu theo học khóa huấn luyện phi công năm 1939. Sau đó, ông được giao nhiệm vụ phục vụ trong phi đội bay 616 trong Trận chiến nước Anh.
Tuy nhiên, sau một vài nhiệm vụ, những chấn thương ở vai khiến "Johnnie" Johnson bị điều về hậu phương để điều trị. Sau khi ở bệnh viện điều trị một thời gian, ông quay trở lại phi đội bay 616 hoạt động vào mùa xuân năm 1941.
Khi đó, chỉ huy phi đội là phi công huyền thoại Douglas Bader. Ông là người được Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ năm 1976.
"Chỉ huy Douglas Bader đã dạy chúng tôi về lòng dũng cảm, sự quyết tâm", "Johnnie" Johnson chia sẻ. Phi công "Johnnie" Johnson từng có cơ hội được bay cùng chỉ huy Douglas Bader (1910 – 1982).
Sau đó, "Johnnie" Johnson được giao nhiệm vụ chỉ huy phi đội bay 610 Squadron vào tháng 7/1942 và bắn hạ được nhiều
máy bay địch.
Tính đến cuối tháng 6/1944, chiến tích mà phi công "Johnnie" Johnson đạt được đã vượt qua kỷ lục bắn hạ 32 máy bay của phi công "Sailor" Mala, tức 34 máy bay của phát xít Đức. Trong suốt cuộc chiến, phi công Johnson đã thực hiện hơn 1.000 nhiệm vụ bay mà chưa lần nào bị bắn rơi.
Sau Chiến tranh thế giới 2, "Johnnie" Johnson làm nhiệm vụ ở bán đảo Triều Tiên khi xảy ra chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc. Ông đã chiến đấu cùng Không quân Mỹ.
Phi công tài ba của xứ sở sương mù đã vinh dự được Anh và Mỹ trao tặng nhiều giải thưởng, huân chương vì những cống hiến cho đất nước và hòa bình thế giới.
"Johnnie" Johnson còn viết nhiều cuốn sách kể về sự nghiệp nhà binh cũng như những chiến tích sáng chói của mình. Ngày 30/5/2001, ông qua đời vì căn bệnh ung thư.