Cá voi lưng gù (còn gọi là Megaptera novaeangliae) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ 12–16 mét (39–52 ft) và cân nặng khoảng 36.000 kilôgam (79.000 lb).
Cá voi lưng gù có một hình dạng cơ thể đặc biệt, vây ngực dài khác thường và đầu có u. Nó là một con vật nhào lộn, thường trồi lên mặt nước. Con đực tạo ra bài hát phức tạp, kéo dài từ 10 đến 20 phút và được lặp đi lặp lại trong nhiều giờ tại một thời điểm. Mục đích của bài hát là chưa rõ ràng, mặc dù nó xuất hiện để có một vai trò quan trọng trong giao phối. Loài này được tìm thấy trong đại dương và biển trên toàn thế giới, cá voi lưng gù thường di chuyển khoảng cách lên đến 25.000 kilômét (16.000 mi) mỗi năm.
Cá voi lưng gù chỉ ăn ở vùng cực vào mùa
hè và di cư đến các vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới để giao phối
và sinh sản vào mùa đông. Trong mùa đông, Cá voi lưng gù nhịn ăn và tiêu dần số mỡ dự trữ. Chế độ ăn của Cá voi lưng gù gồm có động vật thân mềm và cá.
Cá voi lưng gù (còn gọi là Megaptera novaeangliae) là một loài cá voi tấm sừng hàm.
Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ 12–16 mét (39–52 ft) và cân nặng khoảng 36.000 kilôgam (79.000 lb).
Cá voi lưng gù có một hình dạng cơ thể đặc biệt, vây ngực dài khác thường và đầu có u.
Nó là một con vật nhào lộn, thường trồi lên mặt nước.
Con đực tạo ra bài hát phức tạp, kéo dài từ 10 đến 20 phút và được lặp đi lặp lại trong nhiều giờ tại một thời điểm.
Mục đích của bài hát là chưa rõ ràng, mặc dù nó xuất hiện để có một vai trò quan trọng trong giao phối.
Loài này được tìm thấy trong đại dương và biển trên toàn thế giới, cá voi lưng gù thường di chuyển khoảng cách lên đến 25.000 kilômét (16.000 mi) mỗi năm.
Cá voi lưng gù chỉ ăn ở vùng cực vào mùa
hè và di cư đến các vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới để giao phối
và sinh sản vào mùa đông.
Trong mùa đông, Cá voi lưng gù nhịn ăn và tiêu dần số mỡ dự trữ.
Chế độ ăn của Cá voi lưng gù gồm có động vật thân mềm và cá.