Tuyên bố của Trung Quốc
Ông Đặng Tiểu Bình - lãnh đạo Trung Quốc đã có những phát biểu, tuyên bố trước về một cuộc chiến tranh đối với Việt Nam.
Trong chuyến đi thăm Mỹ vào cuối tháng 1, đầu tháng 2/1979, ông Đặng Tiểu Bình trao đổi với Tổng thống Jimmy Carter về một số chính sách của Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh: “Trung Quốc vẫn phải dạy cho Việt Nam một bài học. Liên Xô có thể sử dụng Cuba, Việt Nam, và sau đó Afghanistan phát triển thành một nước ủy nhiệm. Trung Quốc đang tiếp cận vấn đề này từ một thế mạnh. Hành động sẽ rất hạn chế”.
|
Ngày 17/2/1979, lính Trung Quốc tràn sang biên giới nước ta. Ảnh: Thường Thanh |
Khi trao đổi với báo chí Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “Vai trò của người Việt Nam sẽ còn tồi tệ hơn người Cuba”. Và rằng: “Chúng tôi gọi người Việt Nam là những người Cuba của Phương Đông. Nếu bạn không dạy họ những bài học cần thiết, thì điều đó sẽ chẳng xảy ra”.
Rời nước Mỹ, ông Đặng Tiểu Bình qua Nhật nhằm lôi kéo nước này vào “mặt trận” cô lập Việt Nam. Trong cuộc trao đổi với Thủ tướng Masayoshi Ohira, ông nhắc lại quan điểm của Trung Quốc: Việt Nam phải bị “trừng phạt” vì Campuchia và cam kết: “Duy trì phát triển lâu dài của hòa bình và ổn định quốc tế… [nhân dân Trung Quốc] sẽ quyết định hoàn thành các nhiệm vụ của chúng ta, và sẽ không vô ngại những điều cần thiết”.
Đó chính là những lời rào trước, đón sau hay nói cách khác là tuyên bố về việc sẽ tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa mà lãnh đạo Trung Quốc quyết ý thực hiện đối với Việt Nam.
Ngày 17/2/1979, giới cầm quyền Trung Quốc huy động 60 vạn quân chủ lực tấn công quân sự đối với Việt Nam trên toàn tuyến phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) với chiều dài hơn 1.400km.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến, Trung Quốc đã đánh thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam (có những nơi quân đội Trung Quốc vào sâu từ 15 đến 20 km) ở nhiều tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, tiến hành các cuộc sát hại nhân dân, đốt phá và cướp bóc các thành phố, thị xã, làng mạc. Với hành động đó, Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, một quốc gia độc lập, có chủ quyền và được quốc tế công nhận.
Đáp lại hành động của Trung Quốc, Đảng lãnh đạo quân dân Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng, tiến hành cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược ở vùng biên giới phía Bắc.
|
Những người lính tuổi 18, 20 tham gia mặt trận Vị Xuyên. Ảnh tư liệu |
Trước tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm của quân dân Việt Nam, ngày 5/3/1979, giới cầm quyền Trung Quốc tuyên bố bắt đầu rút quân. Thể hiện thiện chí hòa bình, khi Trung Quốc rút quân, Đảng và Nhà nước Việt Nam tuyên bố không truy kích.
Từ ngày 6/3/1979, phía Trung Quốc vừa rút quân, vừa đánh phá, gây thiệt hại về người và của đối với đồng bào các dân tộc ở một số vùng giáp biên giới.
Đến ngày 18/3, Trung Quốc mới rút hầu hết quân khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, một bộ phận quân chủ lực Trung Quốc “vẫn chiếm đóng trái phép một số nơi thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, có nơi sâu trong nội địa Việt Nam từ 200-600m; thường xuyên gây xung đột vũ trang, làm cho tình hình trên tuyến biên giới tiếp tục căng thẳng kéo dài”.
Từ năm 1980, quân Trung Quốc tiếp tục sử dụng pháo, súng cối bắn phá trên toàn tuyến biên giới; đồng thời, tổ chức nhiều đợt tấn công lấn chiếm nhiều điểm trên khu vực biên giới thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Trung Quốc lựa chọn Hà Tuyên và lấy Vị Xuyên làm điểm tấn công lấn chiếm sau ngày 18/3/1979. “Từ một địa bàn được xác định là hướng thứ yếu, Vị Xuyên nhanh chóng trở thành một điểm nóng, một mặt trận điểm trong chính sách gặm nhấm, gây xung đột biên giới của nhà cầm quyền Bắc Kinh”.
Cuối năm 1988, giới cầm quyền Trung Quốc cho quân dừng hoạt động pháo kích sang đất Việt Nam. Đầu năm 1989, quân Trung Quốc rút khỏi các điểm lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở Bắc Vị Xuyên và dừng hoạt động lấn chiếm trên toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Đến tháng 10/1989, Trung Quốc rút toàn bộ quân khỏi lãnh thổ Việt Nam. Đến đây, cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung mới thật sự chấm dứt.
Ý đồ gây chiến của Trung Quốc
Bên cạnh việc khai thác các tư liệu hồi ký và phỏng vấn về hồi ức của các cán bộ, cựu quân nhân Việt Nam đã được công bố trên các sách báo, chúng tôi còn trực tiếp phỏng vấn 3 người từng tham gia chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược trên tuyến biên giới phía Bắc trong những năm 1979-1989.
Một người là đại tá, nguyên Trung đoàn trưởng, tác chiến ở mặt trận Lạng Sơn năm 1979; một đại tá, nguyên chiến sĩ đồn công an vũ trang, tác chiến ở mặt trận Cao Bằng, từ năm 1979-1981; và một thượng sĩ, cựu binh trung đoàn, chiến đấu ở mặt trận Cao Bằng, từ năm 1986-1988.
Các cựu binh Việt Nam cho rằng có 5 nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bùng nổ của cuộc chiến:
Thứ nhất, xuất phát từ tham vọng bá quyền, bành trướng, xâm lược Việt Nam của giới cầm quyền Trung Quốc. Đại tá N.C.N. - nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 540, Sư đoàn 338, Quân đoàn 14, tác chiến ở mặt trận Lạng Sơn năm 1979, nói: “Họ muốn thôn tính mình. Họ muốn mua chuộc mình không nổi, nên họ xâm lược mình. Họ bắt buộc mình theo họ".
Đại tá N.C.S. nguyên là chiến sĩ đồn công an vũ trang Bí Hà (nay là đồn biên phòng Bí Hà), huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc ở mặt trận Cao Bằng cho rằng: “Trung Quốc có âm mưu đánh chiếm vào biên giới của ta. Xâm phạm chủ quyền biên giới. Mục đích của họ là đánh chiếm thị xã Cao Bằng. Theo Trung Quốc là 'chiến tranh tự vệ', nhưng họ đánh sâu vào lãnh thổ của ta như vậy thì rõ ràng là họ đã tiến hành một cuộc 'chiến tranh xâm lược'”.
Nguyên nhân thứ hai của cuộc chiến được các cựu binh Việt Nam lý giải là Trung Quốc muốn đỡ đòn cho tập đoàn Khmer Đỏ trên chiến trường Campuchia nên đã tấn công Việt Nam ở vùng biên giới phía Bắc.
Ông N.T.Đ. nguyên là chiến sĩ Trung đoàn 427, Sư đoàn 392, Quân khu 1, tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc ở mặt trận Cao Bằng nói: “Khi tôi tham gia trên chiến trường, mình vẫn nghe đài bên kia phát, là lũ 'tiểu bá' vô ơn, đánh các đồng chí Campuchia… Phải dạy cho Việt Nam một bài học… Từ 'tiểu bá' chính là ám chỉ Việt Nam đánh Campuchia. Về chính thức, Trung Quốc không nói đỡ đòn cho Campuchia. Còn thực tế là như vậy (Việt Nam buộc phải rút một bộ phận quân đội từ Campuchia về hỗ trợ)”.
Thứ ba, theo các cựu binh Việt Nam, Trung Quốc phát động chiến tranh là để tranh thủ sự ủng hộ của các nước đang chống phá Việt Nam lúc đó, qua đó tập trung nguồn lực phục vụ cho việc thực hiện kế hoạch “4 hiện đại hóa” ở trong nước.
Thứ tư, việc gây ra cuộc chiến còn là hành động trả đũa của Trung Quốc đối với các động thái ngoại giao của Việt Nam với Liên Xô. Đại tá N.C.N. cũng cho rằng: “Họ đánh mình để làm mình hoang mang, để mình không quan hệ với Liên Xô nữa. Trung Quốc ý đồ thế”.
Và đây cũng là cách mà ông N.T.Đ. lý giải về nguyên nhân của cuộc chiến tranh. Ông nói: “Theo cá nhân tôi được biết, thế giới lúc bấy giờ, hệ thống chủ nghĩa xã hội có sự rạn nứt. Vị trí của Việt Nam rất quan trọng, nắm được Việt Nam sẽ ảnh hưởng lớn đến Đông Nam Á. Liên Xô có quân đội đóng tại cảng Cam Ranh của Việt Nam.
Do đó, Việt Nam trở thành một mắt xích cực kỳ quan trọng. Trung Quốc chưa thuyết phục Việt Nam bằng nhiều thứ và chưa thuyết phục được ai bằng kinh tế. Trung Quốc chỉ còn cách sử dụng quân sự.
Đặng Tiểu Bình nói “dạy cho Việt Nam một bài học” tức là đánh để Việt Nam biết ai là quan trọng. Đặng Tiểu Bình nói “Chổi ngắn không quét được nhện xa” là như thế.
Nguyên nhân thứ năm được các cựu binh Việt Nam nhắc đến là Trung Quốc muốn phá hoại tiềm lực của Việt Nam.
Có thể thấy rằng mục tiêu kìm hãm sự phát triển, muốn Việt Nam bất ổn cả về kinh tế, chính trị, quân sự và đối ngoại, hòng tách và cô lập Việt Nam ra khỏi các liên minh đối ngoại, hợp tác để phát triển đất nước sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng là một trong nhiều lý do quan trọng để Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh.
10 năm ròng rã đầy hy sinh
Sẽ còn có nhiều những lý giải khác nhau nữa về nguyên nhân của cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung (1979-1989), song qua khảo cứu tư liệu hồi ký và phỏng vấn một số cán bộ, quân nhân Việt Nam, có thể thấy hầu hết thông tin đều cho rằng người gây ra cuộc chiến này là Trung Quốc và đây là một cuộc chiến tranh phi nghĩa của Trung Quốc đối với Việt Nam.
|
Nghĩa trang liệt sỹ Vị Xuyên |
Từ 5 nguyên nhân được các cựu binh Việt Nam đưa ra thì có thể thấy, đó đều là những nguyên nhân, lý do vô lý xuất phát từ lợi ích của Trung Quốc, bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế.
Đương nhiên, tư liệu hồi ký và phỏng vấn của quân nhân Việt Nam mà chúng tôi đã đề cập ở trên là chưa nhiều; những thông tin trong hồi ức về nguyên nhân bùng nổ cuộc chiến tranh còn ít, chưa phản ánh đầy đủ về nguyên nhân bùng nổ cuộc chiến tranh biên giới 1979-1989. Thêm vào đó, tư liệu hồi ký và phỏng vấn là những ghi chép lại bằng trí nhớ về những sự việc đã xảy ra đối với bản thân trong quá khứ, do đó mang đậm tính chủ quan và phụ thuộc độ lãng quên thông tin của tác giả cung cấp.
Vì vậy, để nghiên cứu khách quan, toàn diện về cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung, cần tiếp tục nghiên cứu và phải nghiên cứu nghiêm túc, đa chiều với nhiều phía, nhiều phương pháp tiếp cận, xóa bỏ những “e ngại” về chính trị - đối ngoại.
Nghiên cứu về cuộc chiến tranh này không phải để khơi lại, gây chia rẽ thù hằn giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc, mà nhằm tôn vinh những quân nhân Việt Nam đã tham gia chiến đấu và trân quý nền hòa bình hiện tại.
Tại nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên năm 2019, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã viết trong Sổ tưởng niệm: “Ngày 17/2/2019. Đời đời nhớ ơn các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước. Đảng, Tổ quốc, nhân dân đời đời ghi nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ đã chiến đấu anh dũng, bảo vệ biên cương Tổ quốc trong giai đoạn tháng 2/1979 ở biên giới phía Bắc và kéo dài cả 10 năm ròng rã; đầy hy sinh nhưng cũng đầy khí phách Việt Nam! Kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ các đồng chí!”.
Tài liệu trích dẫn
Báo Nhân dân. 1979. “Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả lời phỏng vấn của đồng chí Mi-a-mô-tô Ta-rô, Đại diện Đảng Cộng sản Nhật Bản, Phân xã trưởng Báo A-ca-ha-ta tại Hà Nội”, số (9020), ra ngày 18/2, tr. 1-4.
Trường Chinh. 1982. “Nhân dân Việt-nam kiên quyết đánh bại mọi mưu mô xâm lược của chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa bá quyền Trung-quốc”, Tạp chí Cộng sản số 3, 1982, trong sách Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc, Tạp chí Cộng sản xuất bản, Hà Nội - 1983, tr. 33-55.
Lê Tự Đồng. 1979. “Về chủ nghĩa quân phiệt của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Trung Quốc”, Tạp chí Cộng sản số 3, 1979, trong sách Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc (1983), Tạp chí Cộng sản xuất bản, Hà Nội, tr. 280 - 294.
Mai Thanh Hải. 2019. “40 năm cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc (17.2.1979 - 17.2.2019): Không thể quên!”, báo Thanh niên, 44 (8453), ngày 13/2, tr.22.
Lê Hiệp. 2019. “40 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (17.2.1979 - 17.2.2019): Chiến thắng của chính nghĩa”, báo Thanh niên, 48 (8457), ngày 17/2, tr.2.
Howard, Adam M. (General Editor). 2013. Foreign Relations of the United States, 1977 - 1980, Volume XIII - China, United States Government Printing Office, Washington, DC.
Kiều Minh, Nguyệt Hằng. 2019. “Chúng ta đã đánh bại ý đồ xâm lược”, trong cuốn sách: Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (1979 - 1989) - Góc nhìn báo chí, Đồng Xuân Thụ, Lê Quang Long đồng chủ biên, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
Nguyễn Đức Huy. 2019. Hồi ức Chiến tranh Vị Xuyên, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
Kissinger, Henry. 2001. On China, The Penguin Press, New York.
Lê Kim. 1984. Một bước thất bại của bọn bành trướng Bắc Kinh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Trần Ngọc Long. 2019. “Vị Xuyên "đi trước... về sau"”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 2 (514), tr. 53 - 59.
Việt Long. 2019. “Chiến tranh Việt - Trung 1979: diễn biến và hậu quả”. Bài đăng trên trang Nghiên cứu Quốc tế - Tư liệu học thuật chuyên ngành Nghiên cứu Quốc tế.
Phạm Thịnh, Minh Khang. 2019. “Đoạn kết đẹp lạ kỳ hành trình tìm người lính trong bức ảnh nổi tiếng cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược”, đăng trên VTCNews.
Trần Lưu, Đỗ Trung, Quốc Khánh. 2019. “Tri ân các anh hùng, liệt sĩ tại Vị Xuyên, Hà Giang”, báo Sài Gòn giải phóng, (14988), ngày 18/2, tr. 2.
Nxb. Sự thật. 1979. Sức mạnh đoàn kết ý chí quyết thắng, Hà Nội.
Tyler, Patrick. 1999. A great wall: six presidents and China: an investigative history, PublicAffairs, New York.
Beijing Review. 1979. “Vice-Premier Deng in Washington”, No. 6, February 9, pp. 8 - 14.
TS Phạm Minh Thế - Huỳnh Thanh Mộng (Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội)
TS Phạm Minh Thế - Huỳnh Thanh Mộng (Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội)