FN FAL là một trong những khẩu súng trường bán tự động nổi tiếng nhất thế giới trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, lúc cao điểm được tới hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng.Tên đầy đủ của súng là Fabrique Nationale Fusil Automatique Leger, xuất hiện lần đầu vào năm 1946 khi công ty FN và Vương quốc Anh hợp tác chế tạo một loại súng trường đối kháng.Ban đầu khẩu súng trường FAL sử dụng loại đạn 7.92x33mm của Đức, sau đó hãng thiết kế sửa đổi để sử dụng loại đạn mới 7,62 x 51mm của Mỹ.Anh là nước đầu tiên sản xuất biến thể của súng FAL, lúc đó gọi nó là súng trường bán tự động L1A1.Nhiều nước NATO sau đó cũng mua bản quyền chế tạo dòng súng này và trang bị tiêu chuẩn cho quân đội của mình.Súng FAL tỏ rõ được tính năng của mình trong thời điểm quân Anh chống lại quân nổi dậy ở Malaysia vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, cũng như các cuộc chiến tranh thời mới tái lập quốc của Israel.Vì lý do đó, khẩu FAL trở thành vũ khí chính với biệt danh "cánh tay phải của thế giới tự do" trong suốt những năm 60, 70 và 80, khi nó đối đầu với AK-47 của Liên Xô trong rất nhiều cuộc chiến tranh do Mỹ và Liên Xô hỗ trợ nổ ra khắp thế giới.Đôi lúc, FAL còn được sử dụng đối đầu nhau, khi cả quân Anh và Argentina đều được trang bị súng trong Chiến tranh Falklands năm 1982. Thời kỳ này có lẽ là thời đỉnh cao của FAL gần như có sự phổ biến không kém gì khẩu AK-47 huyền thoại của Liên Xô.Hình dáng có phần mảnh mai của FN FAL được cải tiến thành nhiều loại súng để đáp ứng nhiều nhu cầu khắt khe, với những phiên bản có báng sau gập lại dành cho lính dù, phiên bản trung liên có nòng súng lớn và nòng ngắn dành cho các lính Biệt kích.Độ chính xác và sức công phá của súng FAL vượt trội hơn AK khi bắn tầm xa và ngang hàng với khẩu G3 của Tây Đức, cũng sử dụng cùng loại đạn 7,62 x 51mm.Tùy từng phiên bản, súng trường bán tự động FN FAL sẽ có trọng lượng từ 3,85 cho tới 5,95 kg. Kèm theo đó là chiều dài tổng thể của súng sẽ từ 770 mm cho tới 1125mm.Sử dụng cỡ đạn 7,62x51mm chuẩn NATO, khẩu súng này có uy lực ghê gớm không khác gì so với khẩu AK-47 khi xét tổng thể tiêu chí.Cụ thể, tầm bắn tối đa của nó đạt tới 600 mét với gia tốc đầu đạn 840 mét/giây (cao hơn AK-47) và có tốc độ bắn 700 viên mỗi phút.FAL có tổng cộng ba loại hộp tiếp đạn tiêu chuẩn, bao gồm hộp tiếp đạn chuẩn 20 viên, hộp tiếp đạn mở rộng 30 viên và hộp tiếp đạn dạng trống 50 viên cho phép khẩu súng này có khả năng bắn không thua kém gì một khẩu súng máy hạng nhẹ.Tổng cộng đã có 2 triệu khẩu FAL được sản xuất, xuất hiện trong mọi cuộc xung đột trên khắp thế giới kể từ khi nó ra đời tới nay.Mãi đến cuối những năm 1980 đầu 1990, khi các nước chuyển sang sử dụng loại đạn 5.56 x 45mm, khẩu FAL mới bắt đầu đi vào quên lãng với việc quốc gia chính là Vương quốc Anh quyết định ngừng sử dụng súng vào năm 1986.Những cố gắng để chuyển đối của hãng FN cho khẩu FAL để sử dụng đạn 5,56 x 45mm đã không thành công và các nước khác cũng dần loại bỏ nó ra khỏi quân đội.Ngày nay, chỉ một vài nước đang phát triển vẫn còn sử dụng FAL và con số đó vẫn đang giảm xuống."Cánh tay phải của thế giới tự do", như trước đây FAL đã từng được gọi, có lẽ là một trong những khẩu súng trường vĩ đại nhất đã tham gia trong những tháng ngày bất an của Chiến tranh Lạnh.Dù không phải là súng trường tấn công mà chỉ là súng trường đối kháng, nó được coi là những súng trường cuối cùng với những chiến tích vang dội của đại gia đinh súng trường đối kháng có bề dày lịch sử đồ sộ.
FN FAL là một trong những khẩu súng trường bán tự động nổi tiếng nhất thế giới trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, lúc cao điểm được tới hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng.
Tên đầy đủ của súng là Fabrique Nationale Fusil Automatique Leger, xuất hiện lần đầu vào năm 1946 khi công ty FN và Vương quốc Anh hợp tác chế tạo một loại súng trường đối kháng.
Ban đầu khẩu súng trường FAL sử dụng loại đạn 7.92x33mm của Đức, sau đó hãng thiết kế sửa đổi để sử dụng loại đạn mới 7,62 x 51mm của Mỹ.
Anh là nước đầu tiên sản xuất biến thể của súng FAL, lúc đó gọi nó là súng trường bán tự động L1A1.
Nhiều nước NATO sau đó cũng mua bản quyền chế tạo dòng súng này và trang bị tiêu chuẩn cho quân đội của mình.
Súng FAL tỏ rõ được tính năng của mình trong thời điểm quân Anh chống lại quân nổi dậy ở Malaysia vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, cũng như các cuộc chiến tranh thời mới tái lập quốc của Israel.
Vì lý do đó, khẩu FAL trở thành vũ khí chính với biệt danh "cánh tay phải của thế giới tự do" trong suốt những năm 60, 70 và 80, khi nó đối đầu với AK-47 của Liên Xô trong rất nhiều cuộc chiến tranh do Mỹ và Liên Xô hỗ trợ nổ ra khắp thế giới.
Đôi lúc, FAL còn được sử dụng đối đầu nhau, khi cả quân Anh và Argentina đều được trang bị súng trong Chiến tranh Falklands năm 1982. Thời kỳ này có lẽ là thời đỉnh cao của FAL gần như có sự phổ biến không kém gì khẩu AK-47 huyền thoại của Liên Xô.
Hình dáng có phần mảnh mai của FN FAL được cải tiến thành nhiều loại súng để đáp ứng nhiều nhu cầu khắt khe, với những phiên bản có báng sau gập lại dành cho lính dù, phiên bản trung liên có nòng súng lớn và nòng ngắn dành cho các lính Biệt kích.
Độ chính xác và sức công phá của súng FAL vượt trội hơn AK khi bắn tầm xa và ngang hàng với khẩu G3 của Tây Đức, cũng sử dụng cùng loại đạn 7,62 x 51mm.
Tùy từng phiên bản, súng trường bán tự động FN FAL sẽ có trọng lượng từ 3,85 cho tới 5,95 kg. Kèm theo đó là chiều dài tổng thể của súng sẽ từ 770 mm cho tới 1125mm.
Sử dụng cỡ đạn 7,62x51mm chuẩn NATO, khẩu súng này có uy lực ghê gớm không khác gì so với khẩu AK-47 khi xét tổng thể tiêu chí.
Cụ thể, tầm bắn tối đa của nó đạt tới 600 mét với gia tốc đầu đạn 840 mét/giây (cao hơn AK-47) và có tốc độ bắn 700 viên mỗi phút.
FAL có tổng cộng ba loại hộp tiếp đạn tiêu chuẩn, bao gồm hộp tiếp đạn chuẩn 20 viên, hộp tiếp đạn mở rộng 30 viên và hộp tiếp đạn dạng trống 50 viên cho phép khẩu súng này có khả năng bắn không thua kém gì một khẩu súng máy hạng nhẹ.
Tổng cộng đã có 2 triệu khẩu FAL được sản xuất, xuất hiện trong mọi cuộc xung đột trên khắp thế giới kể từ khi nó ra đời tới nay.
Mãi đến cuối những năm 1980 đầu 1990, khi các nước chuyển sang sử dụng loại đạn 5.56 x 45mm, khẩu FAL mới bắt đầu đi vào quên lãng với việc quốc gia chính là Vương quốc Anh quyết định ngừng sử dụng súng vào năm 1986.
Những cố gắng để chuyển đối của hãng FN cho khẩu FAL để sử dụng đạn 5,56 x 45mm đã không thành công và các nước khác cũng dần loại bỏ nó ra khỏi quân đội.
Ngày nay, chỉ một vài nước đang phát triển vẫn còn sử dụng FAL và con số đó vẫn đang giảm xuống.
"Cánh tay phải của thế giới tự do", như trước đây FAL đã từng được gọi, có lẽ là một trong những khẩu súng trường vĩ đại nhất đã tham gia trong những tháng ngày bất an của Chiến tranh Lạnh.
Dù không phải là súng trường tấn công mà chỉ là súng trường đối kháng, nó được coi là những súng trường cuối cùng với những chiến tích vang dội của đại gia đinh súng trường đối kháng có bề dày lịch sử đồ sộ.