Lăng mộ “có 1-0-2” của người đàn bà “phú gia địch quốc”

(Kiến Thức) - Ở xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có một người phụ nữ được chúa Trịnh Sâm phong là phú gia địch quốc.

Bao nhiêu tài sản bà làm ra chỉ để giúp đỡ dân nghèo và làm cầu cho dân chúng đi. Tên đầy đủ của bà là Nguyễn Thị Thuyết, người dân thường gọi bà là Bổi Lạng.
Phú gia địch quốc
Chúng tôi tìm về thôn Đông Phong, xã Bình Lãng hỏi thăm về gốc tích của bà Bổi Lạng, mọi người đều nói rằng ông Nguyễn Tá Triền là họ hàng gần với bà Bổi Lạng.
Gặp chúng tôi, ông Triền tự hào nói rằng ông là hậu duệ đời thứ 17 của bà Bổi Lạng, người đã mất cách đây khoảng hơn 400 năm trước. Theo tư liệu mà ông Triền cung cấp cho chúng tôi, thuở nhỏ bà Bổi Lạng rất nghèo khó, hằng ngày đi mò cua bắt ốc lấy tiền nuôi mẹ. Một buổi chiều tà nước thủy triều sông Thái Bình rút xuống bà mải mê mò hến thì đột nhiên mò được một thỏi vàng, càng mò càng được nhiều vàng bạc, bà lẳng lặng mang về.
Có người cho rằng, số vàng bạc châu báu đó có từ cuối thế kỷ thứ XVI khi quân Lê - Trịnh giao chiến với quân nhà Mạc trên sông Thái Bình, đoạn qua xã Bình Lãng. Khi đó, số tài sản mà quân Lê - Trịnh cướp được của nhà Mạc bị đắm thuyền rơi hết xuống sông. Nhờ mò được vàng bạc đó mà bà Bổi Lạng có vốn làm ăn trở nên giàu có.
Dù được khắc hơn 400 năm nhưng những tấm bia đá nơi đây vẫn nguyên vẹn.
Dù được khắc hơn 400 năm nhưng những tấm bia đá nơi đây vẫn nguyên vẹn. 
Ông Triền cho hay, theo văn bia ở khu mộ ghi lại, xưa kia cụ Bổi làm nghề buôn bán lúa gạo và chăn nuôi gia súc để lập nghiệp, một nghề khi đó vừa có thể giúp đỡ dân nghèo vừa có thể làm giàu nhanh chóng. Có những năm mất mùa, giá thóc gạo đắt như vàng bạc, bà đã bán hết gia sản lấy tiền làm vốn tậu ruộng, chăn nuôi gia súc, trợ cấp cho người nghèo. Thời gian sau bà trở thành người giàu có nhất vùng, ruộng có nghìn mẫu, tiền có trên vạn xâu, thóc lúa gia súc nhiều vô kể. Khác với những người khác khi có tiền thường mua quan bán chức, nhưng bà dành tiền đó để giúp đỡ dân nghèo.
Thời Lê - Trịnh, bà Bổi Lạng được người đời liệt kê vào một trong hai người giàu nhất nước. Bà giàu đến mức tiếng tăm lan cả vào kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh Sâm biết chuyện tức tốc dẫn quân lính về gặp bà. Chúa Trịnh đem theo đoàn quân phục tùng hộ giá ngót nghét cả nghìn người. Bà Bổi Lạng thấy mình chỉ là kẻ giàu chốn quê mùa nhưng được chúa hạ cố xuống hỏi thăm thì vui mừng khôn xiết. Bà dẫn chúa Trịnh đi thăm quan cơ ngơi của mình, nhìn thấy ruộng vườn bát ngát, gia súc nhiều vô kể, chúa Trịnh Sâm mới thốt lên rằng đúng là người đàn bà phú gia địch quốc. Bà ngỏ lời mời chúa Trịnh cùng quân quan ở lại ba ngày ba đêm để mở tiệc chiêu đãi. Mỗi ngày bà cho người làm hàng trăm mâm cỗ để mời mọi người thưởng thức, bà dặn ăn uống xong quân lính không phải rửa bát, có thể đập vỡ tùy thích.
Cây cầu này do bà Bổi Lạng làm để cho dân chúng đi lại thuận tiện.
Cây cầu này do bà Bổi Lạng làm để cho dân chúng đi lại thuận tiện. 
Làm cầu cho người dân trong vùng
Về xã Bình Lãng chúng tôi được nghe các cụ cao niên nơi đây kể về việc bà Bổi Lạng chia ruộng đất, thóc lúa cho những người dân nghèo. Đặc biệt bà đầu tư tiền xây dựng tất cả 36 cây cầu, giúp cho người dân trong vùng đi lại thuận lợi. Cụ Nguyễn Tá Tàu (85 tuổi) kể: Có một lần bà đi qua xã La Tỉnh, huyện Tứ Kỳ, đến bến sông Vạn, tại đây trước kia có cây cầu bằng gỗ lim, nhưng lâu ngày đã hư hỏng, khách qua đường phải lội bùn lầy qua sông. Thấy vậy, bà đã cho người mua gỗ lim, đóng hai con thuyền, lấy hai người trong làng để chở đò miễn phí cho người dân qua lại. Để trả công cho người chở đò bà đã cấp cho họ 5 mẫu ruộng để họ cầy cấy sinh sống.
Cụ Tàu cho hay trong số 36 cây cầu bà xây cho người dân trong vùng giờ vẫn còn nhiều cây cầu tồn tại. Nhiều người dân trong làng nói rằng xưa kia bà Bổi Lạng cũng dành tiền để xây dựng cầu cho người trong làng. Nhưng khi đó có một số người đàn ông trong làng không muốn bà xây dựng, họ cho rằng bà là gái góa chồng. Vì thế nên bà cũng không làm cầu cho làng nữa.
Theo chân anh Lê Văn Ngọc, công an viên xã Bình Lãng, chúng tôi được mục sở thị cây cầu đá có niên đại trên dưới 400 năm. Cây cầu này được gọi là cầu đá Đen nằm tại thôn Thái An, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ. Anh Ngọc bảo, qua thời gian nhưng cây cầu vẫn còn rất kiên cố. Trước đây, mỗi khi xây cầu xong bà đều kiểm tra độ vững chắc của cầu bằng cách đặt bàn chân lên cầu thật mạnh, nếu như cầu không sập thì mới bàn giao cho dân làng sử dụng.
Chiếc bát hương là hiện vật duy nhất của bà Bổi Lạng để lại.
Chiếc bát hương là hiện vật duy nhất của bà Bổi Lạng để lại. 
Rải bánh đa làm rạp và khu lăng mộ có một không hai
Cụ Nguyễn Thị Dảo (82 tuổi) mẹ của ông Triền cho hay: "Cụ Bổi Lạng giàu có nhất xứ Đông. Nhưng gần như tài sản, ruộng vườn cụ chia cho dân nghèo hết. Con cháu cũng chỉ được một phần nhỏ. Trước đây, gia đình chúng tôi còn hoành phi câu đối của cụ để lại. Nhưng năm 1950, ngôi nhà đã bị quân thực dân Pháp thiêu rụi, mọi người chỉ giữ lại duy nhất chiếc bát hương. Vì thế, tài sản của cụ Bổi Lạng để lại chỉ còn chiếc bát hương".
Trước đây, khi cụ mất đi người dân làng quý trọng cụ, đã làm rạp từ đầu làng ra tận nghĩa trang ngoài cánh đồng. Ở phía trên rạp mọi người lợp bằng bánh đa, làm lễ tang cho cụ xong người dân lấy bánh đa chia cho trẻ con. Do nướng vội bánh đa làm rạp che cho bà nên từ đó làng đó có tên là làng Vội.
Ông Triền cho biết: Theo văn bia ghi trong lăng mộ thì trước khi bà Bổi Lạng qua đời, bà đã làm lăng mộ trước. Mộ được làm bằng đá xanh rất kiên cố, xưa kia bà cho người vào tận núi An Hoạch ở Thanh Hóa để lấy. Đích thân thám hoa Lê Quý Đức, nổi tiếng người có quyền uy thời Lê - Trịnh về để viết văn bia cho bà.
Khu lăng mộ bà Bổi Lạng nằm giữa cánh đồng.
 Khu lăng mộ bà Bổi Lạng nằm giữa cánh đồng.
Ông Triền dẫn chúng tôi vượt qua cánh đồng lúa bát ngát để đến khu mộ của bà Bổi Lạng. Phía trước khu lăng mộ là hai chú chó bằng đá, có ý nghĩa để bảo vệ khu mộ, xung quanh là những tấm bia ký. Và ở giữa là khu lăng mộ ba tầng. Ông Triền bảo, qua thời gian, mưa bão nhưng lăng mộ gần như vẫn còn nguyên vẹn. Tuy lăng mộ được xây dựng nguy nga ở giữa cánh đồng, nhưng chưa chắc thi hài của bà có nằm ở đó. Bởi người xưa sợ kẻ xấu biết chỗ chôn cất sẽ đào mộ lên để tìm vàng bạc.
Ông Triền cho hay, năm 2009 các cơ quan ban ngành trong tỉnh đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học: "Nữ doanh nhân - Nhà từ thiện Bổi Lạng" nêu lên những công trạng của bà trước đây, để Nhà nước công nhận khu lăng mộ của bà Bổi Lạng là khu di tích lịch sử của tỉnh. Nhưng đến nay vẫn chưa thấy cơ quan nào đả động đến. Khu lăng mộ của bà bị các gia đình làm ruộng xung quanh lấn chiếm. Dòng họ ông Triền cũng muốn xây dựng bao quanh diện tích đất của khu lăng mộ, tuy nhiên con cháu chưa có điều kiện nên đành nhìn cỏ cây bao vâỵ.
"Công trạng của bà Bổi Lạng đối với dân chúng xưa kia là vô cùng lớn lao. Hiện trong vùng còn nhiều cây cầu do bà làm. Chúng tôi đã quy hoạch dành diện tích đất để xây dựng khu lăng mộ cho bà. Đồng thời đề xuất lên các cấp trong tỉnh sớm công nhận lăng mộ của bà Bổi Lạng là di tích lịch sử cấp tỉnh".
Ông Nguyễn Ngọc Cùng (Chủ tịch UBND xã Bình Lãng)

Tiếng gọi bí ẩn ở lăng mộ Huế

Ông Nguyễn Tuấn Lâm cũng là một trong 2 chuyên gia khảo cổ học Việt Nam được cử đi đào tạo tại Úc về khảo cổ học dưới nước. Suốt 10 năm trời lăn lộn với những cuộc khai quật khảo cổ tại cố đô Huế, ông Lâm đã gặp những câu chuyện kỳ bí, những sự trùng hợp kỳ lạ không thể giải thích nổi.

Đó là những sự trùng hợp đến kỳ lạ mà cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Như cái chết của người quản tượng; Hòn đá bất thường trong Điện thờ lăng Gia Long; Tiếng gọi bí ẩn dẫn nhà khảo cổ học tìm ra cột thiêng cùng tấm địa đồ tại Lăng Thiệu Trị, và cả những cái chết bất ngờ…

 

Tấm bia đàn xã tắc và 2 đám tang

Trong 10 năm thực hiện Dự án khai quật khảo cổ học 17 di tích tại Huế, Trưởng đoàn khảo cổ học tại Huế của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, chuyên gia khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm đã ghi nhận lại rất nhiều chuyện thần bí, kỳ lạ đã xảy ra. Trong suốt nhiều năm qua ông Lâm vẫn ám ảnh về những câu chuyện bí ẩn đó mà chưa từng hé lộ. Ông Tuân kể lại:

Cuối tháng 7-2007, Bộ VH-TT&DL ra quyết định thực hiện Dự án khai quật khảo cổ học Đàn Xã tắc phục vụ công tác trùng tu trước thềm Festival Huế 2008. Ngày động thổ được chọn là 1-1-2008, nhưng ngay khi lễ động thổ vừa diễn ra, tôi nhận được tin báo, nhạc phụ qua đời do đột tử tại TP.HCM. Sau 3 ngày tổ chức tang lễ, lo hậu sự cho bố, tôi tiếp tục quay trở lại thực hiện dự án còn dang dở thì nhiều sự kiện kỳ lạ lại liên tiếp diễn ra. Đó là chuyện công nhân làm việc tại đây cùng người dân trong khu vực bàn tán xôn xao về việc nhiều người cùng mơ thấy một giấc mộng. Trong đó, hàng đêm có một cụ ông râu dài, tóc bạc phơ chỉ mặc một bộ quần áo trắng tha thẩn trong khu khảo cổ. Sau nhiều lần đắn đo, tôi quyết định mở hố thăm dò tại đúng vị trí đó thì bất ngờ một tấm bia lớn được phát lộ. Đó chính là tấm bia “Xã tắc chi thần” mà các nhà khoa học vẫn tranh luận lâu nay để tìm ra vị trí đặt bia nhưng chưa có kết quả. Ngay sau đó, tấm bia được dựng lại và cũng từ đó, các vị trí cột mốc, chỉ giới dần dần lộ ra đầy đủ và hoàn chỉnh. Sự việc nếu chỉ có thế thì chắc cũng không có gì lạ, nhưng đến đúng ngày  nộp báo cáo kết quả khảo cổ học, kết thúc dự án thì tôi tiếp tục nhận được tin thân phụ mình qua đời tại Hà Nội. Từ đó, những sự việc kỳ lạ kiểu như thế được tôi để ý đến nhiều hơn và xâu chuỗi lại.

Sự cố ám ảnh


Nhắc lại những chuyện kỳ lạ chuyên gia Nguyễn Tuấn Lâm cho biết ông bị ám ảnh nhất là những cái chết và hiện tượng bất thường xảy ra đúng vào kỳ Festival Huế năm 2006. Để phục dựng lại Lễ tế đàn Nam Giao trong Festival Huế 2006, chính quyền Huế đã quyết định mua từ Đắk-Lắk 2 con voi và thuê 2 người quản tượng. Theo kế hoạch 2 con voi này sẽ đi đầu đoàn ngự đạo dẫn theo đội ngũ quan binh chỉnh tề tiến về nơi hành lễ. Song, ngay trước buổi lễ, một người quản tượng trong lúc cho voi ăn đã bất ngờ bị voi dùng ngà xuyên thẳng bụng, quăng lên trời quật chết. Ông Nguyễn Tuấn Lâm chia sẻ: “Mãi cho tới bây giờ, cái chết của người quản tượng vẫn còn ám ảnh tôi bởi cảnh tượng kinh hoàng đó. Thêm vào đó, cùng kỳ Festival còn xảy ra một sự cố đau buồn khác. Ngay trong buổi lễ khai mạc Festival, trời bỗng nổi cuồng phong dữ dội làm đắm một chiếc thuyền đang ngoạn cảnh trên sông Hương đoạn qua gần điện Hòn Chén. Theo tôi nhớ có tới 3, 4 người đã  bỏ mạng trong tai nạn này”.

Không chỉ những tai nạn bất ngờ, tại đây cũng luôn xảy ra các sự trùng hợp, kỳ bí đến nay vẫn chưa có lời giải thích. Như lần đoàn kiểm tra của các nhà lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên - Huế cùng các nhà nghiên cứu văn hóa, sử học có tên tuổi và khách thăm quan đến thăm khu khai quật lăng Gia Long (Thiên Thọ lăng). Chuyến thăm của đoàn từ lúc xuống xe cho tới khi vào điện làm lễ, thắp hương đều được nhà khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm dùng máy quay ghi lại. Tuy nhiên, đến khi xem lại thì toàn bộ đoạn ghi hình đoàn tiến vào điện chính dâng lễ, thắp hương trong điện đã trở thành một khoảng đen khó hiểu.

Cũng tại khu vực điện chính, chỉ trước đó vài ngày, một vụ tai nạn kỳ lạ đã xảy ra. Trong lúc kiểm tra, chụp ảnh tư liệu hiện trường, một cán bộ Ban quản lý dự án Cố đô Huế lúc đó phát hiện ra một tảng đá lạ thường rất đẹp ở trong điện. Để tiện việc nghiên cứu, ông đã yêu cầu bảo vệ nhấc tảng đá ra khỏi điện để chụp ảnh nhưng lại quên bê hòn đá trả lại vị trí cũ. Và khi ông cán bộ này vừa đến cổng thì bị va chạm xe máy. Sau nửa tiếng tìm kiếm, mọi người mới phát hiện ra ông đang nằm bất động trong một bụi tre gần đó. “Đến giờ chúng tôi vẫn chưa thể lý giải được nguyên do nào cán bộ đó bắn vào trong bụi tre có chiều cao quá đầu người mà chỉ bị xây xát ngoài da. Để đưa ông ra, người ta đã phải chặt bụi tre. Chiếc xe của ông chỉ khởi động được khi hòn đá được đem trả vào vị trí cũ trong điện”…    

 

Tiếng gọi lạ và bức địa đồ

Là một nhà khoa học, không bao giờ tin vào những chuyện ma mị, kỳ quái, nhưng đến tận bây giờ tôi vẫn chưa thể tìm ra những bí ẩn đằng sau các câu chuyện kỳ lạ trong quá trình khai quật lăng Thiệu Trị (Xương Lăng). Những ngày đầu mở hố thám sát khai quật khảo cổ học, tôi cùng các đồng nghiệp nghe thấy đâu đó có tiếng lảng bảng vọng lại. Đến nửa đêm, tôi lại nằm mơ có người chỉ dẫn mình đến một di chỉ vô cùng quan trọng tại khu vực lăng Thiệu Trị. Quyết định thử vận may tại địa điểm vừa được báo, ông cho tổ chức đào ngay tại đó. Chỉ qua lớp đất mặt, một bức tranh được xếp bằng gạch đá được phát lộ. Ông tự tay tỉ mẩn làm sạch từng góc cạnh và phát hiện đây là một bức địa đồ với trung tâm ở giữa là dòng sông Hương uốn lượn. Điểm đặc biệt ở chỗ, những viên gạch dùng để xếp bức địa đồ đều là loại gạch có từ thời Gia Long. Nhưng địa điểm phát hiện lại nằm trong quần thể khu di tích lăng Thiệu Trị. Biết tin, các nhà nghiên cứu về cố đô Huế đã có mặt với rất nhiều giả thuyết đã được đưa ra. Trong đó, chủ yếu tập trung ý kiến cho rằng bức địa đồ thể hiện lại những thế đất đẹp ở Huế với hai bên tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ xoay quanh trục chính là sông Hương. Tại thời điểm ấy, mọi người đều muốn tổ chức một cuộc hội thảo để luận bàn tấm địa đồ kia thể hiện những gì và tại sao lại xuất hiện ở khu vực lăng Thiệu Trị. Nhưng sau nhiều biến động, cho đến nay, hội thảo vẫn chưa được diễn ra. Ý nghĩa thật sự của bức địa đồ vẫn là một bí ẩn.

 Những ngày tiếp sau, tiếng gọi lạ lại xuất hiện đưa ông ra xa khỏi khu vực khảo cổ, lần tìm đến sát bờ sông Hương. Tại đây, ông và một người đồng nghiệp đã phát hiện ra một di tích, đó chính là cột chỉ giới quan trọng của lăng Thiệu Trị. Sử sách có ghi lại, cây cột thiêng được dựng để nhắc nhở người dân là khu vực linh thiêng, ai đi ngựa qua phải xuống ngựa, ai đi bộ phải ngả nón cúi đầu mà đi, người trên thuyền không được khua mái, cấm những lời bông đùa, cợt nhả. Cây cột cao tới 4m với nhiều hoa văn lạ mắt trạm trổ trên chất liệu gạch được gắn bởi loại vữa đặc biệt. Do tối trời, ông chỉ kịp cùng người đồng nghiệp chụp lại vài tấm hình làm tư liệu. Sáng sớm hôm sau, khi trở lại nghiên cứu thì cây cột đã bị đập phá tan tành, toàn bộ phần thân của cây cột chỉ còn 1m, xung quanh là đống gạch đá kéo dài ra bờ sông Hương. Cây cột bị chủ mảnh đất đập đi để xây khu nghỉ dưỡng. Sau này, chính người chủ nhà đã phải thừa nhận và  phục dựng lại cây cột theo các hình ảnh chụp được trước đó. Nhưng, chắc chắn một điều nếu không có sự dẫn dắt kỳ lạ kia, thì sẽ chẳng còn dấu tích của cây cột thiêng.

Nhà khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm chia sẻ cố đô Huế - đất văn hiến vẫn còn muôn vàn những chuyện kỳ bí chưa tìm được lời giải đáp. Những chuyện  mà ông kể có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên được nhiều người chú ý. Đến nay những câu chuyện kỳ bí như vậy vẫn được người dân Huế truyền tai nhau thu hút sự quan tâm của tất cả các du khách mỗi khi đặt chân đến nơi đây.

TIN BÀI LIÊN QUAN


BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU

“Cận cảnh” chiến dịch Prairie ở Việt Nam trên tạp chí LIFE

Những hoạt động của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch Prairie (1966) ở Việt Nam đã được đăng tải trên tạp chí LIFE.

Chiến tranh Việt Nam (1954–1975) là giai đoạn thứ hai và khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương. Đây là cuộc chiến giữa Mỹ, Ngụy và các đồng minh hòng chống lại công cuộc giải phóng dân tộc, giành độc lập, chính nghĩa của Quân đội do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
 Chiến tranh Việt Nam (1954–1975) là giai đoạn thứ hai và khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương. Đây là cuộc chiến giữa Mỹ, Ngụy và các đồng minh hòng chống lại công cuộc giải phóng dân tộc, giành độc lập, chính nghĩa của Quân đội do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Những hình ảnh tư liệu này do phóng viên chiến trường của tạp chí LIFE chụp, ghi lại hoạt động của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch Prairie (từ 3/8 đếm 27/10/1966) hòng đánh bật quân Giải phóng ra khỏi khu vực phi quân sự chia cắt hai miền Nam, Bắc.
Những hình ảnh tư liệu này do phóng viên chiến trường của tạp chí LIFE chụp, ghi lại hoạt động của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch Prairie (từ 3/8 đếm 27/10/1966) hòng đánh bật quân Giải phóng ra khỏi khu vực phi quân sự chia cắt hai miền Nam, Bắc.  

Bí ẩn thi hài nguyên vẹn 400 năm của bà chúa Chén (1)

(Kiến Thức) - "Nắp quan tài vừa mở ra thì mùi hương thơm của gỗ lũa, cùng với những chất ướp trong thi hài tỏa ra ngào ngạt".

Trước đây, người dân thôn Ô Mễ, xã Hưng Đạo, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương chỉ nghe kể về bà chúa Chén thông qua những câu chuyện truyền thuyết. Nhưng kể từ khi người dân nơi đây đào được mộ của bà, được nhìn thấy thi hài của bà thì mọi người mới tin là có thật...

Đọc nhiều nhất

Tin mới