Ngôi làng có nhiều chất quý hiếm nhất thế giới có tên Ytterby nằm trên đảo Resarö (Thụy Điển) gây chú ý bởi 10 chất trong bảng tuần hoàn hóa học gồm: Yttrium, Ytterbium, Terbium, Erbium, Gadolinium, Thulium, Scandium, Holmium, Dysprosium, Lutetium đều được tìm thấy từ một mẫu quặng đá duy nhất khai quật ở một mỏ kim loại cũ kĩ tại đây.10 chất hóa học trên rất hiếm có và cực kì khó chiết xuất. Các nhà khoa học và hóa học đã phải mất hàng chục năm để khám phá và nghiên cứu chúng. Trong đó, ít nhất 4 nguyên tố hóa học đã được đặt theo tên ngôi làng Ytterby là: Yttrium (Y), Erbium (Er), Terbium (Tb), and Ytterbium (Yb).Ngôi làng Ytterby của Thụy Điển lần đầu tiên ghi dấu trong lịch sử là vào năm 1787. Khi ấy, một trung úy quân đội kiêm nhà hóa học Carl Axel Arrhenius khám phá ra một mẫu đá quặng màu đen nặng bất thường trong một mỏ đá cũ gần làng.Arrenhus đã đặt tên mẫu quặng này là Ytterbite và gửi nó đến nhiều nhà hóa học khác để phân tích, với hi vọng đây chính là một loại vật liệu mới được khám phá tương tự như vonfram.Johan Gadolin - nhà hóa học người Phần Lan tại ĐH Åbo - đã xác định được nguyên tố quý hiếm đầu tiên từ mẫu đá của Arrhenius năm 1789. Nguyên tố này được gọi là Yttrium (Y). Hơn 100 năm sau, các nhà khoa học lần lượt phát hiện 9 nguyên tố khác từ mỗi mẫu đá trên.Năm 1843, Carl Gustav Mosander phát hiện thấy Ytterbite thực chất là một hỗn hợp của 3 oxit kim loại. Trong đó, hai nguyên tố mới đã được chiết ra là Terbium (Tb) và Erbium (Er).Hai nguyên tố này đều được đặt theo tên ngôi làng Ytterby - nơi chúng được phát hiện. Đến năm 1878, mẫu oxit kim loại thứ tư được Jean Charles Galissard de Marignac phát hiện. Về sau, nguyên tố Ytterbium (Yb) nguyên chất được các nhà khoa học tách ra.Dần dần, các kỹ thuật tách lọc được cải thiện, nhiều nguyên tố mới lại tiếp tục được tìm thấy trong số 4 oxit ở trên, nâng tổng số nguyên tố được chiết xuất từ mẫu đá Ytterbite lên con số 10.Một điều đặc biệt là một trong số các nguyên tố trên - Gadolinium (Gd) được đặt theo tên của Johan Gadolin. Thêm nữa, chính mẫu đá cũng được đặt lại tên từ Ytterbite sang Gadolinite để vinh danh công trạng của nhà khoa học Gadolin.Mỏ quặng nơi mẫu đá quặng được khai thác thực ra là một mỏ Fenspat. Nó bị đóng cửa từ lâu. Do vậy, hiện nơi này trở nên hoang phế, tiêu điều. Chỉ có một tấm bảng nhỏ trên một hòn đá ở gần mỏ lại còn lưu lại dấu vết của cuộc phát hiện. Sự khám phá có ý nghĩa rất to lớn, thậm chí một số những con đường trong ngôi làng cũng được theo tên của các nguyên tố tìm thấy ở đây.
Ngôi làng có nhiều chất quý hiếm nhất thế giới có tên Ytterby nằm trên đảo Resarö (Thụy Điển) gây chú ý bởi 10 chất trong bảng tuần hoàn hóa học gồm: Yttrium, Ytterbium, Terbium, Erbium, Gadolinium, Thulium, Scandium, Holmium, Dysprosium, Lutetium đều được tìm thấy từ một mẫu quặng đá duy nhất khai quật ở một mỏ kim loại cũ kĩ tại đây.
10 chất hóa học trên rất hiếm có và cực kì khó chiết xuất. Các nhà khoa học và hóa học đã phải mất hàng chục năm để khám phá và nghiên cứu chúng. Trong đó, ít nhất 4 nguyên tố hóa học đã được đặt theo tên ngôi làng Ytterby là: Yttrium (Y), Erbium (Er), Terbium (Tb), and Ytterbium (Yb).
Ngôi làng Ytterby của Thụy Điển lần đầu tiên ghi dấu trong lịch sử là vào năm 1787. Khi ấy, một trung úy quân đội kiêm nhà hóa học Carl Axel Arrhenius khám phá ra một mẫu đá quặng màu đen nặng bất thường trong một mỏ đá cũ gần làng.
Arrenhus đã đặt tên mẫu quặng này là Ytterbite và gửi nó đến nhiều nhà hóa học khác để phân tích, với hi vọng đây chính là một loại vật liệu mới được khám phá tương tự như vonfram.
Johan Gadolin - nhà hóa học người Phần Lan tại ĐH Åbo - đã xác định được nguyên tố quý hiếm đầu tiên từ mẫu đá của Arrhenius năm 1789. Nguyên tố này được gọi là Yttrium (Y). Hơn 100 năm sau, các nhà khoa học lần lượt phát hiện 9 nguyên tố khác từ mỗi mẫu đá trên.
Năm 1843, Carl Gustav Mosander phát hiện thấy Ytterbite thực chất là một hỗn hợp của 3 oxit kim loại. Trong đó, hai nguyên tố mới đã được chiết ra là Terbium (Tb) và Erbium (Er).
Hai nguyên tố này đều được đặt theo tên ngôi làng Ytterby - nơi chúng được phát hiện. Đến năm 1878, mẫu oxit kim loại thứ tư được Jean Charles Galissard de Marignac phát hiện. Về sau, nguyên tố Ytterbium (Yb) nguyên chất được các nhà khoa học tách ra.
Dần dần, các kỹ thuật tách lọc được cải thiện, nhiều nguyên tố mới lại tiếp tục được tìm thấy trong số 4 oxit ở trên, nâng tổng số nguyên tố được chiết xuất từ mẫu đá Ytterbite lên con số 10.
Một điều đặc biệt là một trong số các nguyên tố trên - Gadolinium (Gd) được đặt theo tên của Johan Gadolin. Thêm nữa, chính mẫu đá cũng được đặt lại tên từ Ytterbite sang Gadolinite để vinh danh công trạng của nhà khoa học Gadolin.
Mỏ quặng nơi mẫu đá quặng được khai thác thực ra là một mỏ Fenspat. Nó bị đóng cửa từ lâu. Do vậy, hiện nơi này trở nên hoang phế, tiêu điều. Chỉ có một tấm bảng nhỏ trên một hòn đá ở gần mỏ lại còn lưu lại dấu vết của cuộc phát hiện. Sự khám phá có ý nghĩa rất to lớn, thậm chí một số những con đường trong ngôi làng cũng được theo tên của các nguyên tố tìm thấy ở đây.