Bao Công và kỳ án chiếc rương tai họa (kỳ 1)

Cái gói của Thụy Long được mở ra, bên trong là thủ cấp của một phụ nữ chứ không phải thủ lợn.

Bao Công có nhiều công trạng trong việc xử án nên vua Nhân Tông phong cho ông kiêm chức Giám sát Ngự sử, không những có quyền xét xử những vụ án ở Khai Phong mà còn được phép vi hành các vùng lân cận để xem xét dân tình, điều tra thêm các vụ trọng án. Ông được vua Nhân Tông trao cho quyền tiền trảm hậu tấu nên các quan huyện, thậm chí đến cấp tri phủ đều phải sợ hãi, ít nhiều cũng giảm bớt sự lộng hành, bức ép người dân.
Một lần, ông cùng với Bao Hưng đi đến trấn Tam Trinh. Thấy nơi đây không những phong cảnh tươi đẹp mà dân tình cũng thuần hậu chất phác nên Bao Công rất mừng, cho rằng quan lại nơi đây biết cách cai trị dân. Chẳng ngờ, Bao Công vừa nghĩ xong thì chợt có một bà lão từ trong ruột rỗng của cây liễu lớn bên đường chạy ra, quỳ ngang đường, hai tay dâng một tờ đơn khiếu kiện.
 
Bao Công thấy có người đệ đơn khiếu kiện liền lập tức cho dừng kiệu, nhận đơn rồi đọc nhanh để biết sơ lược bà lão này kêu oan việc gì. Thấy nét chữ trong đơn rất sắc sảo, Bao Công liền hỏi ngay xem người viết lá đơn kia có phải là bà lão hay không. Bà lão khi ấy vẫn quỳ dưới đất mà thưa rằng từ nhỏ đã được học hành, rèn chữ mỗi ngày nên tự mình viết đơn được không cần nhờ ai khác.
Vốn tính cẩn thận nên Bao Công vẫn sai người đưa cho bà lão tờ giấy cùng bút mực bắt viết thử vài chữ. Bà lão không chút do dự, viết ngay một câu thơ cổ chứng tỏ là người có học vấn chứ không nói dối.
Bao Công so sánh hai nét chữ thấy quả thật là đúng nên bảo bà lão cứ nhà về, ông sẽ đến huyện đường xem án văn về việc này và sẽ có trát gọi sau. Rồi Bao Công lệnh cho quân khiêng kiệu lập tức nhằm về hướng huyện đường Tam Trinh. Đến huyện đường rồi, Bao Công truyền lấy văn án ra xem, ghi nhớ kỹ trong đầu vụ việc một nho sinh tên là Hàn Thụy Long bị khép vào tội giết người.
Còn bà lão vừa đưa đơn kiện chính là mẹ đẻ của Hàn Thụy Long. Chồng chết sớm nên Hàn thị ở vậy nuôi con. Chồng chết chẳng để lại gia sản gì nên hai mẹ con Thụy Long phải thuê một gian nhà nhỏ ở thôn Bạch Gia Bảo, không có gia nhân giúp việc. Tuy nhiên Hàn thị là người có học hành nên bà không để con trai mình thất học, dù cuộc sống hết sức cơ cực nhưng bà vẫn khuyến khích con trai mình học tập, hy vọng mai này sẽ làm rạng rỡ tông môn.
Một buổi tối nọ, khi Thụy Long đang khêu đèn đọc sách thì chợt nghe thấy tiếng động lạ, cậu quay lại thì vừa kịp thấy có một người mặc áo xanh, đi giày màu đỏ vào phòng của mẹ mình. Cậu lập tức đuổi theo xem người lạ ấy là ai và tại sao lại vào phòng của mẹ mình. Nhưng căn phòng trống rỗng không có đồ đạc gì nhiều khiến Thụy Long nhận ra ngay là chẳng có ai cả.
Cậu dụi mắt cho là do đọc sách nhiều nên nhìn gà hóa cuốc. Thế nhưng tối hôm sau, cậu lại thấy hiện tượng này xảy ra, cậu không kịp lên tiếng mà cũng không kịp nhìn mặt người ấy. Lần này, cậu không thể giấu được nữa, cậu nói thật với mẹ rồi cả hai cẩn thận đốt đèn sáng soi khắp mọi chỗ. Khi soi vào gầm giường, hai mẹ con có một chỗ đất hơi vồng lên nên lấy làm ngạc nhiên vì lúc dọn nhà hoàn toàn không có chỗ đất ấy.
Hai mẹ con khiêng giường sang một bên, lấy cuốc xẻng đào chỗ đất ấy lên. Chỉ thoáng chốc, họ đã nhìn thấy một chiếc rương lớn lộ ra, có khóa cẩn thận như thể bên trong chứa vật gì quý giá. Hai mẹ con đều hồi hộp, họ dùng cây sắt cạy nắp rương lên thì thấy thật bất ngờ khi chiếc rương chứa đầy vàng bạc.
Trong lúc Thụy Long vui mừng hớn hở thì Hàn thị lại tỏ vẻ đăm chiêu nói: "Vàng bạc đến bất ngờ là điềm chẳng may. Có lẽ đây là của phi nghĩa, chúng ta nên trình báo với quan quân thì hơn".
Thụy Long nghe mẹ nói vậy liền nói lại: "Theo con thì dù là của phi nghĩa nhưng chúng ta không hề làm gì sai trái, cũng không trộm cắp của người khác mà của cải tự đến thì chắc là trời phật thấy chúng ta nghèo khó nên ban ơn cho. Hơn nữa nếu báo quan quân thì hết sức phiền phức, chắc chắn bị tra hỏi mất nhiều thời gian. Chi bằng chúng ta đừng nói ai biết, cứ lấy số vàng bạc này mà lo cho cuộc sống, làm phúc giúp đỡ người khác hay bố thí vào cửa Phật tạo công đức thì hay hơn".
Hàn thị nghe con nói cũng có lý nhưng vẫn thở dài đáp: "Mẹ cũng biết như thế nhưng ở đời bao giờ của phi nghĩa cũng đem tới nhiều đau khổ hơn là sung sướng. Hơn nữa cái việc con thấy người áo xanh xuất hiện mấy lần chỉ chỗ chôn vàng bạc thì càng không nên coi thường. Theo mẹ thì áo xanh tượng trưng cho quan quyền, còn giày đỏ thì có thể là sự thất bại, không được bình yên".
"Theo mẹ thì chúng ta nên trình báo với quan trên, nếu quả số vàng bạc này vô chủ thì chắc chắn sẽ được thưởng ít nhiều, như vậy cũng đủ qua cơn ngặt nghèo túng bấn rồi. Lòng tham bao giờ cũng đem đến cái hại, con nên suy nghĩ cho kỹ mới được".
Nhưng Thụy Long từ nhỏ đến giờ ăn uống kham khổ, vật chất thiếu thốn nên không đời nào chịu bỏ qua món quà trời cho ấy. Cậu ta tranh cãi với mẹ đến cùng. Cuối cùng vì quá yêu chiều đứa con duy nhất nên bất đắc dĩ, Hàn thị phải gật đầu đồng ý và bảo Thụy Long ngày mai đi mua chút lễ vật để tạ ơn thần phật. Thụy Long cùng mẹ khiêng chiếc rương để vào chỗ cũ, lấp đất trở lại sau khi đã lấy một chút vàng để sáng mai dùng đến. Hai mẹ con tắt đèn đi ngủ và không hề nghĩ đến hiện tượng vì sao có người áo xanh lẻn vào nhà nữa.
Do lần đầu tiên nhìn thấy số vàng bạc lớn như vậy nên cả đêm, Thụy Long không tài nào ngủ được. Khi tiếng gà vừa cất lên thì cậu vội đi rửa mặt, thưa với mẹ rồi tất tả lên đường ra chợ huyện mua đồ. Khi ra khỏi nhà thì Thụy Long mới nhận ra là trời chưa sáng hẳn, chắc chắn chợ huyện chưa có người nên đành chậm bước một chút.
Nhưng dù cậu đã đi rất chậm nhưng khi tới chợ thì chợ vẫn còn vắng hoe, chưa hề có ai dọn hàng. Thụy Long đành đi tới cửa hàng bán thịt của người đồ tể họ Trinh gọi cửa, hỏi mua một cái đầu lợn về làm lễ cúng.
Vì còn sớm nên họ Trịnh rất khó chịu, định từ chối đi vào nhưng sau đó không biết nghĩ sao lại đi ra chấp nhận bán cho Thụy Long cái thủ lợn nên vui vẻ cho mượn một tấm vài, gói cái thủ lợn ấy cho cậu mang về còn dặn rằng vài ba hôm nữa trả tấm vải cũng không sao.
Lúc đó do trời còn tối nên Thụy Long không nhìn thấy vẻ mặt gian manh của tên đồ tể họ Trịnh, cậu mang về còn dặn rằng vài ba hôm nữa trả tấm vải cũng không sao. Lúc đó do trời tối nên Thụy Long không nhìn thấy vẻ mặt gian manh của tên đồ tể họ Trịnh, cậu chỉ mừng rỡ cảm ơn lòng tốt của hắn mà không biết rằng đó là khởi nguồn của tai họa.
Rước họa vào thân
Thụy Long mừng vui mang thủ lợn về nhà, khi đi ngang qua khu rừng thưa cảm thấy mỏi tay, cậu liền đặt cái gói vải xuống đất ngồi nghỉ chân. Bất ngờ có một toán quân đi tuần ngang qua. Một tên lính tinh mắt thấy gói vải có dính chút máu thì lập tức tiến tới hỏi. Một tên khác mau lẹ mở gói vải thì không thể ngờ được rằng, đó là cái thủ cấp của phụ nữ chứ không phải là thủ lợn.
Trong lúc Thụy Long còn đang chết ngất người vì kinh hoàng thì bọn lính lập tức xúm lại trói chặt cậu lại rồi giải đến huyện đường, chờ đến khi trời sáng mới trình lên quan là có án mạng. Thấy đó là trọng án, quan huyện lập tức thăng đường. Sau khi nghe Thụy Long kể lại đầu đuôi câu chuyện thì quan huyện lập tức cho gọi đồ tể họ Trinh đến để thẩm vấn.
Chẳng ngờ tên đồ tể kia chối phắt, cho rằng mình hoàn toàn không bán đầu lợn cho Thụy Long, riêng tấm vải là của mình nhưng do Thụy Long đến mượn về dùng 3 hôm trước. Họ Trịnh còn tức giận nói với Thụy Long không đáng là học trò, đã cố tình mượn tấm vải của mình về gói đầu người để đổ tội cho người khác.
Nhưng quan huyện Tam Trinh là người khá sáng suốt, dựa theo thái độ cùng lời nói của Thụy Long thì biết rằng, trong chuyện này có nhiều uẩn khúc, nên không tra tấn như thường lệ mà giam cả hai người vào ngục chờ điều tra. Và trong lúc quan huyện còn phân vân chưa biết bắt đầu từ đâu thì Bao Công tới nơi. Cũng do Hàn thị quá nôn nóng, biết tin Bao Công đang tuần tra đến vùng này thì chui vào cây liễu lớn ẩn nấp, trú mưa trú nắng mấy ngày trời cho đến khi gặp Bao Công.
Bao Công gọi Thụy Long lên thẩm vấn lần nữa. Vừa nhìn thấy diện mạo thanh tú của Thụy Long, Bao Công đã có suy nghĩ người học trò ấy không thể là thủ phạm, tên đồ tể họ Trịnh mới là nghi phạm thứ nhất. Nghe Thụy Long khai giống hệt những gì đã khai hôm trước ghi trong văn án, không hề ngập ngừng. Bao Công lại càng tin mình nghĩ đúng, hỏi thêm: "Ngươi mua thủ lợn rồi gặp quân tuần vào lúc mấy giờ?".
Thụy Long thưa: "Tiểu sinh cũng không rõ là mấy giờ, chỉ biết lúc đó trời hãy còn sớm". "Thế ngươi mua thủ lợn với mục đích gì mà đi sớm như vậy? Đây là đầu mối quan trọng phải khai cho thực". Thụy Long biết rằng, nếu càng giấu càng khó minh oan nên cúi đầu tạ lỗi trước, sau đó mới khai toàn bộ sự việc mình thấy người áo xanh giày đỏ xuất hiện chỉ đường cho hai mẹ con tìm thấy con rương vàng bạc như thế nào, rồi định mua thủ lợn về cúng tế tạ ơn thần phật nên mới nôn nóng đi từ sáng sớm ra sao.
Bao Công nghe xong thầm nghĩ, nếu quả thật là có rương vàng bạc thì tất Thụy Long vô tội, lập tức sai quan huyện và các sai nha kéo đến thôn Bạch Gia Bảo khám xét. Khi quan huyện vâng lệnh đi rồi, Bao Công mới gọi họ Trịnh ra thẩm vấn. Vừa nhìn thấy bộ mặt hung ác của hắn, Bao Công lại càng tin tưởng nếu điều tra bắt đầu từ tên này ắt sẽ tìm ra manh mối.
Nhưng mặc cho Bao Công hăm dọa, họ Trịnh vẫn cương quyết giữ lời khai như cũ. Đến khi Bao Công sai quân đánh đòn khiến da thịt của hắn tan nát, máu chảy đầm đìa, hắn vẫn nhất định không nhận tội. Đúng lúc đó quan huyện trở về bẩm báo rằng, quả có tìm thấy cái rương dưới gầm giường nhà Hàn thị, thế nhưng trong rương chỉ toàn là vàng bạc bằng giấy, tức là đồ mã chứ không phải là vàng bạc thật. Quan huyện còn kinh sợ cho biết, khi nảy sinh nghi ngờ đã cho quân đào sâu thêm thì phát hiện một xác chết nam giới không có đầu.
Bao Công cũng hơi ngạc nhiên vì sự việc lại biến chuyển kỳ lạ như vậy, theo văn án thì cái đầu Thụy Long cầm về là của phụ nữ, trong khi ấy lại tìm thấy cái xác đàn ông thì thật trái ngược. Bao Công liền cho gọi Thụy Long lên hỏi và được biết khi mất đi, cha của cậu chẳng để lại của cải gì, rằng căn nhà hai mẹ con đang ở là căn nhà đi thuê nên không biết lai lịch ra sao.
Bao Công không trách cậu về điều đó, sai lính giam cả hai người vào trong ngục rồi liền bàn bạc với những người thân tín và yêu cầu Triệu Hổ đi do thám. Triệu Hổ liền hóa trang thành một người hành khất, mặt mũi lấm lem, quần áo rách ruối, đeo bị chống gậy mà đi khắp vùng.
Một lần khi đang đi thì Triệu Hổ thấy đau nhói dưới gan bàn chân, nhan tiện thấy có tảng đá lớn đặt trước của ngôi chùa thì liền ngồi xuống tháo giầy ra xem. Triệu Hổ thấy giày bị miếng sắt nhọn xuyên thủng, không biết làm sao lấy ra được nên đập thật mạnh vào cánh cửa chùa hi vọng miếng sắt nhỏ ấy bung ra.
Tiếng đập cửa khiến các hòa thượng trong chùa tưởng rằng có người gọi nên sai tiểu tăng ra mở cửa. Tiểu tăng thấy đó chỉ là một người hành khất thì định đi vào. Lúc đó tâm trí Triệu Hổ hầu như dồn hết vào vụ án mạng kỳ lạ này nên nhìn thấy tiểu tăng thì buột miệng hỏi: “Tiểu sư phụ, có bao giờ nhìn thấy một người thân hình là nam, đầu là nữ hay chưa?”.
Tiểu tăng nghe vậy nghĩ ngay đó là người hành khất bị điên khùng nên bực tức đóng sầm cửa lại, không thèm nói một lời nào. Triệu Hổ ngẩn người ra một lúc rồi mới tự cười nhạo mình sao lại thốt ra những lời ngô nghê như vậy, như thế thì làm sao dò la được tin tức. Do vậy, Triệu Hổ đi loanh quanh một vòng, thấy trời tối bèn nhằm hướng Tam Trinh mà về.
Khi đi qua đầu thị trấn, Triệu Hổ chợt nhìn thấy có một bóng người đang lấy hết sức để trèo lên bờ tường thấp, rất vất vả mới lọt được vào một khu vườn nhỏ. Triệu Hổ biết ngay tên này chỉ là ăn trộm tầm thường, không có võ công nên mau lẹ bỏ gậy bị xuống đất, nhún mình phóng lên đứng trên đầu tường quan sát tình hình. Nhìn thấy bóng người ấy chưa đi đâu, còn đang khom lưng lẩn lút sau mấy đống củi, Triệu Hổ liền nhảy xuống tóm lấy hắn. Rất nhanh, tên trộm bị khuất phục dưới bàn tay cứng như sắt của Triệu Hổ.
Khi ấy Triệu Hổ mới có thời gian quan sát, thì ra tên trộm này còn khá trẻ, diện mạo cũng không đến nỗi hung ác, bất lương. Hắn nói rằng tên là Diệp Thiên Nhi, vì không có nghề nghiệp gì để nuôi dưỡng mẹ già đã hơn 80 tuổi nên bất đắc dĩ phải hành nghề trộm cắp và đây là lần đầu tiên hắn hành nghề nên xin Triệu Hổ hãy tha cho hắn.
Triệu Hổ nghe vậy đã toan nới tay tha cho hắn nhưng bất chợt nhìn xuống dưới đất thấy ló ra một dải lụa màu trắng. Triệu Hổ nắm lấy dải lụa kéo lên thì càng lôi càng thấy dài, rồi đất đá bắt đầu dạt ra hai bên, cuối cùng lộ ra một cái chân trắng nõn, Triệu Hổ vẫn một tay giữ Thiên Nhi, một tay nắm chân xác chết lôi mạnh, hóa ra là cái xác phụ nữ nhưng không có đầu.
Rồi sau đó mặc cho Thiên Nhi van xin bảo mình không phải là thủ phạm, Triệu Hổ dùng dải lụa trắng trói chặt hắn lại, nhét giẻ vào miệng để hắn không kêu được rồi cứ mặc hắn ở lại khu vườn rồi phóng như bay về huyện đường báo cáo với Bao Công.
(Còn nữa...)

Bí ẩn ngàn năm về mộ Bao Công

Bao Công có 2 mộ đang còn là chuyện "sai, đúng nghìn năm". 

Bao Công là một vị quan đứng đầu Phủ Khai Phong, xét án rất công minh chính trực, nổi tiếng với các vụ “Tra án Quách Hòe”, “Ngựa Bạch Long”, “Giấc mộng hoàng kim”... thường được gọi là “Bao Công kỳ án”.
Người đã phanh phui những vụ án động trời, đụng chạm đến cả triều đình nhà Tống, hẳn bị nhiều người thù ghét, nên khi mất thọ 64 tuổi đã phải bí mật đem chôn. Mộ Bao Công ở đâu, xem ra còn là một điều bí ẩn.

Tư liệu quý khẳng định chủ quyền Trường Sa – Hoàng Sa

(Kiến Thức) - Triển lãm: "Một số hình ảnh, tư liệu về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" vừa khai mạc tại TP Đà Lạt (Lâm Đồng) vào ngày 26/8 vừa qua. 

Triển lãm lần này do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa phối hợp tổ chức. Những tài liệu được trưng bày tại triển lãm một lần nữa khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam đối với hai quần đảo thiêng liêng này. Triển lãm sẽ kéo dài tới ngày 14/9. Ảnh: Đại Nam nhất thống toàn đồ, dưới triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán.
 Triển lãm lần này do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa phối hợp tổ chức. Những tài liệu được trưng bày tại triển lãm một lần nữa khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam đối với hai quần đảo thiêng liêng này. Triển lãm sẽ kéo dài tới ngày 14/9. Ảnh: Đại Nam nhất thống toàn đồ, dưới triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán.
Nhiều bản đồ được các nước phương Tây vẽ vào thế kỷ 18, 19 cũng cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam.
 Nhiều bản đồ được các nước phương Tây vẽ vào thế kỷ 18, 19 cũng cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam.

Những kiểu xét án lạ lùng trong sử Việt

Thời phong kiến, trong lĩnh vực hình án, việc xét xử những tội trạng, sự việc có chứng cứ rõ ràng chỉ cần căn cứ vào hình luật mà y việc. Nhưng với những việc cần điều tra, xét hỏi, việc nghị án không dễ chút nào bởi chứng cứ mất mát mà việc phục dựng hiện trường cũng không dễ tiến hành. Ấy thế nên nhiều vị pháp quan phải vận dụng trí thông minh tuyệt đỉnh của mình mà mở án những vụ khó khăn. 

Phạt roi. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
 Phạt roi. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.

Trận hỏa hoạn nên duyên kiểm pháp. Ấn đầu người biết đến trước, sau

Tháng 2 năm Mậu Dần (1278), niên hiệu Bảo Phù năm thứ 6 thời trị vì của vua Trần Thánh Tông. Lúc này dân ta chết nhiều vì bệnh đậu mùa rất nhiều, một bệnh nằm trong “tứ chứng nan y” thời đó khi không có thuốc chữa. 

Dạo ấy, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm, chẳng biết do bị phóng hỏa hay đốt đống rấm (đống chấu) để xóa dịch bệnh. Vua Thánh Tông ra ngoại thành xem chữa cháy, Nội thư gia Đoàn Khung được đi theo hầu. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, vua muốn biết người nào đến trước, đến sau tham gia việc chữa cháy, bèn sai quan Nội thư gia họ Đoàn điểm danh, báo cáo. Việc này thực khó, vì muốn biết ai đến trước đến sau, cứ hỏi chính người đó mới biết. Nhưng chắc không phải ai cũng tâu thật. Quan Đoàn Khung liền nghĩ ra một kế. 

Ông tập hợp những người chữa cháy lại xếp thành hàng, rồi ấn đầu từng người một bảo ngồi xuống để đếm, đếm xong tâu rõ với vua người nào đến trước, người nào đến sau, quả nhiên không sai chút nào. Khâm phục tài năng của họ Đoàn, vua Thánh Tông bèn hỏi:

- Tại sao mà ngươi biết rõ thế được?

Đoàn Khung bấy giờ chắp tay mà rằng: 

- Thần ấn đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro bụi bám vào thì đó là những người đến trước và cố sức chữa. Người nào đầu tóc không có mồ hôi mà tro bụi bay rơi là người đến sau không kịp chữa, vì thế mà biết. 

Vua cho là giỏi, có ý cất nhắc để dùng. Nhưng 8 tháng sau, ngày 22 tháng 10 âm lịch cùng năm, Trần vua nhường ngôi cho con trai là Hoàng Thái tử Trần Khâm (tức là vua Trần Nhân Tông) rồi lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Thời vua Anh Tông, nhớ lại việc của Đoàn Khung, vua liền cất nhắc viên Nội thư gia năm xưa, cho Đoàn Khung làm Kiểm pháp quan, khi xét án, hễ Anh Tông hỏi về điển lệ cũ, Đoàn Khung đều dẫn được án cũ làm chứng, có khi dẫn nhiều đến năm, sáu án. Vua Anh Tông khen viên Kiểm pháp quan họ Đoàn thông minh nhớ lâu và suy xét thấu đáo. Có được viên Kiểm pháp như thế, cũng là cái lợi cho dân nơi công đường, hình án.
 
Quan cho dân tát người, xét án ra thủ phạm

Đời vua Lê Hy Tông (1663 - 1716) thời Lê Trung hưng, lúc này đất nước phân chia, thiên hạ đại loạn, trộm cắp cũng theo đó mà nhiều vô số kể. Việc hình án cũng bởi thế mà tăng lên không ngừng. Chốn công đường cũng không khỏi nhiêu sự vụ khó khăn. Nhưng nhân tài Nguyễn Mại từ đó mà ló dạng. 

Tù nhân. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
 Tù nhân. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.

Quan Nguyễn Mại, người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương, năm 37 tuổi dự thi khoa Tân Sửu (1691) niên hiệu Chính Hòa đỗ Hoàng giáp, trong thời gian làm quan nhà Lê Trung hưng, ông được khen là: “có sức khỏe, có mưu lược, làm quan Thị lang Lễ bộ, ra trấn thủ Sơn Tây, có chính tích đặc biệt, trộm cướp phải nín hơi, xét kiện sáng suốt, danh vọng rất cao” (Trích Đại Nam nhất thống chí, phần Hải Dương tỉnh chí, mục Nhân vật chí).

Cái chính tích đặc biệt được nói tới ở trên, xảy ra lúc Nguyễn Mại đang làm quan trấn thủ tỉnh Sơn Tây. Thỉnh thoảng, quan trấn thủ hay ra ngoài công đường đi xem xét dân tình nơi mình trị nhậm. Cũng từ một trong những lần thực tế ấy, Nguyễn Mại đã xử một vụ án với cách xử hiếm lạ để người đời sau truyền tụng là quan xử án giỏi. Việc này, trong Đăng khoa lục sưu giảng của Thượng thư Trần Tiến đời vua Lê Hiển Tông (1717 - 1786) và sách Hải Dương phong vật chí còn ghi lại sự vụ. Theo đó, một hôm ông Nguyễn Mại đi bộ qua chợ Bảo Khám thuộc huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thấy một người đàn bà mất một cái màn (Hải Dương phong vật chí viết vật bị mất là con gà), chắc xót của lắm nên chửi rủa mãi không thôi, lại lôi cả tam đời, ngũ đại nhà kẻ ăn trộm ra mà chửi.

Sau khi biết sự tình, ông cho gọi người đàn bà mất của lại hỏi chiếc màn đáng giá bao nhiêu tiền để ông trả. Sau ông sai lính trói người đàn bà ấy ở quán, rồi cho gọi làng xóm đến, vờ mắng người đàn bà bị trộm màn cái tội chua ngoa:

- Mất một cái màn đáng giá bao nhiêu tiền mà bà chửi tổ tông người ta? 

Nói xong, ông sai tất cả đàn ông, đàn bà trong xóm ấy vả vào má người đàn bà mất màn vì tội chửi ngoa. Dân trong làng thương người đàn bà ấy lắm, bởi bà ăn ở cũng không đến nỗi nào, đã mất màn lại còn bị tát. Nhưng lệnh quan ra là phải theo, bởi vậy ai cũng phải tát bà ta, nhưng không nỡ tát mạnh. Duy chỉ có một người đàn bà trong làng ra sức tát thật mạnh. Bởi chính mụ này là kẻ ăn trộm, giận vì bị lôi cả tông tộc ra mà chửi nên tát thật mạnh cho sướng tay để trả thù. Nhưng mụ ta nào có biết ý của Nguyễn Mại. Mụ vừa tát xong, quan họ Nguyễn đã cho giữ lại, tra hỏi luôn:

- Chính ngươi đã ăn trộm màn nên mới động lòng mà đánh người ta đau như thế, tội ấy còn chối cãi sao được!

Quả nhiên kẻ ăn trộm màn chính là mụ ta. Chiếc màn được trả lại cho người bị mất, còn mụ đàn bà ăn trộm cứ chiểu theo luật mà định tội. Dân tình trong làng ai cũng khen quan Nguyễn Mại là thần minh, xét án công bằng, sáng suốt mà ít ai ngờ tới. Sau này khi quan Nguyễn Mại mất, người hạt Sơn Tây nhớ công đức của ông có làm bài Sơn Tây Đức chính ký ca ngợi công đức của vị pháp quan. 

Lại cũng dạo đang làm quan, theo Hải Dương phong vật chí cho hay, ở ngôi chùa thuộc huyện Sơn Vi (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), các ni cô tụ họp ở đó, rồi một ni cô kêu mất chiếc xiêm lụa. Biết việc, Nguyễn Mại sai lập đàn cúng, rồi lệnh cho các ni cô một tay cầm tay người kia, một tay nắm ít thóc, cùng chạy quanh đàn cúng. Ông lại vờ bảo, ai là người gian tà thì thóc nắm trong tay sẽ nảy mầm. Các ni cô cứ thế tay cầm tay, lại tay nắm thóc chạy quanh đàn. Để ý, viên quan giỏi xử án thấy một ni cô thường hay hé tay để xem nắm thóc nảy mầm hay chưa. Đoán biết được kẻ trộm áo, ông cho mọi người ngừng chạy quanh đàn cúng, gọi ni cô kia đến bảo phải mau thú nhận. Đúng như quan sát của ông, ni cô ấy nhận tội. Cả chùa khen ông là tài. 

Khi nói đến đất Hải Dương, người đời sau không thôi nhắc đến ông, như trong Đại Nam dư địa chí ước biên, Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục tán tụng rằng: 

Có chính tốt, được dân Sơn Tây yêu mến, còn bia để lại, thì Nguyễn Mại, xứ Ninh Xá; 
Ở nơi đầu sóng ngọn gió, xét án trên đầu voi thì Phạm Đình Trọng ở Khinh Giao.


Quan Phí Trực cẩn trọng xét án, chức An Phủ Thiên Trường trao tay

Đầu thế kỷ XIV, nhà Trần vẫn đang còn ở thời thịnh. Thời vua Anh Tông (1293 - 1314) xã tắc bền vững, thiên hạ no ấm. Đời vua Minh Tông (1314 - 1329) cũng thế. Nhưng mấy năm đầu vua mới Minh Tông lên ngôi, trộm cướp đã bắt đầu nổi lên. 

Thời ấy, trong các đảng cướp, có tên Văn Khánh được xem là đầu sỏ bọn cướp. Triều đình nhiều lần cho quan quân lùng bắt mà không được. Thế mà bỗng dưng có người khai là bắt được một tên cướp, giải lên nộp quan và bảo tên bị bắt ấy là Văn Khánh. Đến lúc tra hỏi, người bị bắt cũng nhận ngay mình là Văn Khánh, ai cũng cho đúng là tên cướp đầu sỏ ấy. Duy có mỗi Phí Trực là Hình bộ lang trung vẫn nghi ngờ, vì không hiểu sao tên trộm đầu sỏ mà lại bị bắt dễ thế, còn khai ngay mình là Văn Khánh chứ không chối quanh thì không khỏi chịu cái tội lụy đến thân. Bởi hình pháp nhà Trần rất thảm khốc, kẻ trộm và người trốn tránh đều phải chặt chân, chặt tay hay là cho voi giày đến chết để chừa mãi thói Đạo chích. Vì phân vân, nên án ấy để lâu không giải quyết. Thượng hoàng Anh Tông biết chuyến đó mới hỏi, Phí Trực trả lời:

- Mạng người rất trọng, lòng thần còn có chỗ nghi ngờ, nên không dám liều lĩnh xử quyết. 

Không bao lâu, Thượng hoàng hỏi lại án Văn Khánh, Phí Trực vẫn trả lời như lần trước. Thượng hoàng giận ông, bảo:

- Nó đã nhận như thế, ngươi còn ngờ gì nữa mà không xử đi. 

Quan Phí Trực tâu: 

- Nó không bị tra tấn khổ sở mà điềm nhiên thú nhận, thần trộm lấy làm ngờ. 

Một tháng sau, tên Văn Khánh thật quả nhiên bị bắt. Thượng hoàng lúc đó mới thấy tài năng của ông Hình bộ lang trung. 
Tháng 3 năm Đinh Tỵ (1317), “Thượng hoàng ngự cung Trùng Quang (ở hành cung Thiên Trường – người dẫn chú). Hình Bộ lang trung Phí Trực theo hầu. Chứ An phủ Thiên Trường khuyết, sai Trực kiêm làm” (trích Đại Việt sử ký toàn thư), xem đó như một đặc ân. Bởi theo lệ nhà Trần người được cử làm An Phủ sứ Thiên Trường phải là những viên quan đã từng kinh qua An Phủ sư cấp lộ, rồi khảo hạch đủ chuẩn mới bổ dụng. Nhưng với Phí Trực thì xem đó như một ngoại lệ bởi tính cẩn thận, minh bạch của ông. 

Giả giấc mộng lạ, tìm ra kẻ ác

Theo Đại Việt sử ký tục biên, năm Canh Thân (1680), niên hiệu Chính Hòa năm thứ nhất, triều đình tổ chức “Thi hội các viên cống cử trong nước, lấy đỗ bọn Nguyễn Côn 19 người. Khi thi Đình cho bọn Phạm Công Thiện (người Ngọc Thiện, huyện Gia Định), Nguyễn Công Xán (người xã Thượng Yên Quyết, huyện Từ Liêm) đỗ tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp)”. Cũng trong kỳ thi ấy, dù không đỗ cao tột bậc, nhưng Nhữ Đình Hiền  (1659 - ?) cũng dự phần đỗ đạt, làm nên công trạng hiển hách, được người đời biết đến nhiều.

Xử án thời Nguyễn.
 Xử án thời Nguyễn. 

Nhữ Đình Hiền còn có tên khác là Nhữ Tiến Hiền, người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông vốn là con của Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng đất Hải Dương đời Lê Trung hưng. Noi gương cha, ông học hành tấn tới, đến khi đi thi, đỗ tiến sĩ khoa thi được nói tới ở trên. Trong đời làm quan, ông phụng mệnh đi sứ phương Bắc, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình, có biệt tài về chính sự, xử án rất công bằng. Người đời còn truyền tụng một câu chuyện xử án nói lên tài trí của ông. Việc được Phạm Quý Thích, một danh thần cùng quê chép trong Hải Dương phong vật chí. 

Lúc bấy giờ, có một vụ nghi án xảy ra. Ở vùng nọ có hai chị em ruột đều đã lập gia đình. Người em gái vì biết tin chị gái bị ốm nên đến săn sóc. Nhà hai chị em cách nhau khá xa. Nhiều ngày sau người chồng của cô em gái không thấy vợ mình trở về. Nghi là vợ mình đã bị chồng của chị gái vợ làm hại, người chồng của cô em gái mất tích mới kiện lên quan làm cho người chồng của chị gái trở thành nghi phạm lớn nhất, bị giam vào ngục. Các quan thay nhau xét án, nhưng chứng cứ không có trong tay, việc ấy đình trệ tới sáu, bảy năm mà vẫn chưa luận định được.

Đến khi án ấy được đưa tới tay quan Thượng thư bộ Hình Nhữ Đình Hiền, không dựa vào những bản cung hình trước của các quan đã kinh qua vụ án này. Quan Thượng thư họ Nhữ muốn tìm chứng cứ thực tế thuyết phục để giải đáp khuất tất. Khi xem địa đồ khu đất bao quanh khoảng nhà hai chị em, ông thấy có một ngôi chùa ở ngoài cánh đồng cây cối rậm rạp mà người thiếu phụ xấu số khi đi tất đến nhà cô chị tất phải qua đó. Đoán rằng, chắc người em gái xấu số kia nhất định bị bọn ác tăng trong ngôi chùa này giở trò đồi bại trước khi đến được nhà chị gái mình. Để có cơ sở thực tế, ông lập tức sai người đưa tới ngôi chùa kia, mượn tiếng tham thiền để lưu lại chùa ấy một đêm.

Sáng hôm sau, Nhữ Đình Hiền cho triệu tập các tăng đồ trong chùa lại, lấy cớ đêm qua nằm thấy có người đến báo mộng, mới dọa rằng:

- Các người đều là kẻ tu hành, sao lại có oan hồn đến tố giác với ta? Vậy thì sự thể ra sao, phải mau tự thú.

Những tên sư hổ mang đều tái mặt khi nghe ông nói, bèn chỉ tay ra một cây tháp. Khi đào chỗ ấy lên, xác người thiếu phụ bị cưỡng hiếp quả nằm dưới ấy. Vụ án nhờ đó được làm sáng tỏ, người chồng của chị gái mới thoát khỏi án ngục, xóa tội. Còn những tên sư phạm tội thì nghiêm trị không chút dung tha. 

Tài xét án của Nhữ Đình Hiền, về sau, đa phần đều giải quyết được những vụ án khó. Thế nên người đương thời mới có câu khe: “Văn chương Lê Anh Tuấn, chính sự Nhữ Đình Hiền”. Lại xếp ông nằm trong danh sách “Tràng An tứ hổ” gồm 4 danh thần giỏi giang bậc nhất đất Thăng Long: Vũ Diệm (1705 - ?), Nguyễn Bá Lân (1700 - 1786), Nhữ Đình Hiền (1659 - ?), Nguyễn Công Thái (1684 - 1758). 

TIN BÀI LIÊN QUAN

BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU

Đọc nhiều nhất

Tin mới