Được thành lập tại thành phố Suhl bởi Lob và Moses, Simson ban đầu như là một nhà máy chế tạo vũ khí. Simson bắt đầu sản xuất xe máy vào năm 1934 với nhãn hiệu BSW (viết tắt của Berlin-Suhler Waffen, nghĩa là nhà máy vũ khí Berlin-Suhler). Một trong những model do hãng này sản xuất là kiểu xe hai thì cổ BSW 100. Sau khi chủ nghĩa phát xít bị lật đổ, phiên bản đầu tiên của Simson là AWO-Simson 425 – một chiếc BMW xi-lanh đơn tiền chiến đi kèm động cơ 4 thì 250cc (đặt nằm dọc) và hộp số 4 cấp. Từ năm 1952 - 1953, hãng Simson cho ra đời một chiếc xe đua 4 thì mới toanh mang tên RS 250 được trang bị động cơ xi-lanh đơn, trục cam nắp đôi do hộp số 6 cấp truyền động. Động cơ này được đặt tên “The Seven” theo hình dáng của đường dẫn động trục cam có khả năng tạo ra công suất 33 mã lực. Khung xe đi kèm chạc Earles và bộ giảm xóc kép. Cũng vào năm 1956, hãng Simson bắt đầu nỗ lực hết sức trong cuộc cạnh tranh cho dòng xe Enduro. Ví dụ điển hình của “cuộc chiến” này là GS 350 được độ từ model 425 với dung tích động cơ tăng lên 350cc và công suất 20 mã lực.Trong thập niên 70, đáng chú ý có mẫu xe S-51 – chiếc xe gắn máy duy nhất còn thịnh hành tại Đông Đức cho đến khi chủ nghĩa phát xít tan rã. Chiếc xe này cũng dùng động cơ 70cc gắn cố định với duy nhất hộp số 3 hoặc 4 cấp và khung xe làm bằng một ống thép. Phiên bản enduro của S-51 (động cơ 70 hoặc 80cc) nổi bật hơn với khung xe gắn thêm ống chịu lực, hộp số 5 cấp và công suất 7,5 mã lực. Từ những năm ’80, xe enduro của hãng Simson được cải tiến hoàn toàn khác. Ví dụ như chiếc GS 80 ra đời năm 1981 sở hữu động cơ làm mát bằng chất lỏng hiện đại, hộp số 6 cấp và công suất 23 mã lực. Sau sự sụp đổ của Đức quốc xã, hãng Simson lâm vào khủng hoảng trầm trọng do dây chuyền sản xuất lỗi thời và sản phẩm lạc hậu. Một vài mẫu xe mới cũng được tung ra như Simson AT 50 theo phong cách “Châu Phi”, Sperber 50 phanh đĩa và giảm xóc đơn, Star 50 độ từ SR-1.
Được thành lập tại thành phố Suhl bởi Lob và Moses, Simson ban đầu như là một nhà máy chế tạo vũ khí. Simson bắt đầu sản xuất xe máy vào năm 1934 với nhãn hiệu BSW (viết tắt của Berlin-Suhler Waffen, nghĩa là nhà máy vũ khí Berlin-Suhler). Một trong những model do hãng này sản xuất là kiểu xe hai thì cổ BSW 100.
Sau khi chủ nghĩa phát xít bị lật đổ, phiên bản đầu tiên của Simson là AWO-Simson 425 – một chiếc BMW xi-lanh đơn tiền chiến đi kèm động cơ 4 thì 250cc (đặt nằm dọc) và hộp số 4 cấp.
Từ năm 1952 - 1953, hãng Simson cho ra đời một chiếc xe đua 4 thì mới toanh mang tên RS 250 được trang bị động cơ xi-lanh đơn, trục cam nắp đôi do hộp số 6 cấp truyền động. Động cơ này được đặt tên “The Seven” theo hình dáng của đường dẫn động trục cam có khả năng tạo ra công suất 33 mã lực. Khung xe đi kèm chạc Earles và bộ giảm xóc kép.
Cũng vào năm 1956, hãng Simson bắt đầu nỗ lực hết sức trong cuộc cạnh tranh cho dòng xe Enduro. Ví dụ điển hình của “cuộc chiến” này là GS 350 được độ từ model 425 với dung tích động cơ tăng lên 350cc và công suất 20 mã lực.
Trong thập niên 70, đáng chú ý có mẫu xe S-51 – chiếc xe gắn máy duy nhất còn thịnh hành tại Đông Đức cho đến khi chủ nghĩa phát xít tan rã. Chiếc xe này cũng dùng động cơ 70cc gắn cố định với duy nhất hộp số 3 hoặc 4 cấp và khung xe làm bằng một ống thép. Phiên bản enduro của S-51 (động cơ 70 hoặc 80cc) nổi bật hơn với khung xe gắn thêm ống chịu lực, hộp số 5 cấp và công suất 7,5 mã lực.
Từ những năm ’80, xe enduro của hãng Simson được cải tiến hoàn toàn khác. Ví dụ như chiếc GS 80 ra đời năm 1981 sở hữu động cơ làm mát bằng chất lỏng hiện đại, hộp số 6 cấp và công suất 23 mã lực.
Sau sự sụp đổ của Đức quốc xã, hãng Simson lâm vào khủng hoảng trầm trọng do dây chuyền sản xuất lỗi thời và sản phẩm lạc hậu. Một vài mẫu xe mới cũng được tung ra như Simson AT 50 theo phong cách “Châu Phi”, Sperber 50 phanh đĩa và giảm xóc đơn, Star 50 độ từ SR-1.