Vợ dìu chồng làm vế đối trả lời vua
Lương Thế Vinh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là làng Cao Phương, xã Liên Bảo thuộc huyện Vụ Bản, Nam Định), từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, rất giỏi tính toán, không sách nào không đọc, am tường nhiều việc. Khi trưởng thành, ông lấy tên tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên.
Năm Quý Mùi (1463) đời Lê Thánh Tông, triều đình mở khoa thi tuyển nhân tài, Lương Thế Vinh trảy kinh ứng thí. Với văn phong dồi dào, ý tứ sâu sắc, kiến thức rộng rãi nên bài thi của ông được chấm cao nhất, các quan phụ trách đọc quyển thi đã đánh giá bài thi của ông là “có học thức, xứng đáng đậu đầu”, còn vua Lê Thánh Tông khi xem bài thi của ông, phê dòng chữ khen ngợi: “Quyển này rõ ràng không hổ danh là một bài đối sách, văn càng đọc càng cảm thấy thích thú”, thế là Lương Thế Vinh đoạt danh hiệu Trạng nguyên, năm đó ông mới 22 tuổi.
|
Chân dung Lương Thế Vinh.
|
Sau khi làm lễ vinh quy bái tổ, Lương Thế Vinh đã cưới con gái thầy học của mình để báo đáp công ơn dạy bảo; ít lâu sau ông về triều làm quan, ban đầu được vua giao trông nom công việc văn quán với chức Tri vinh văn quán, sau lại làm Hàn lâm thị thư chương viện, Chưởng viện sự, Nhập thị kinh diên, Thị thư Viện hàn lâm, kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục Tư huấn... Các giấy tờ, thư từ giao thiệp với nhà Minh đều do ông soạn thảo. Khi hội Tao Đàn được thành lập, Lê Thánh Tông cho ông giữ chức Tao Đàn sái phu.
Về người phụ nữ may mắn trở thành phu nhân quan Trạng, ngoài một giai thoại được lưu truyền đến nay thì sử sách không cho biết chút nào về thân thế, gia cảnh, tên họ của bà là gì… Chuyện kể rằng một lần vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam có ghé thăm làng Cao Hương, quê của Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ quan Trạng cũng đang theo hầu vua. Sau khi nghỉ ngơi một đêm, hôm sau vua đến vãn cảnh chùa làng. Khi đó, sư cụ đang ngồi tụng kinh, thấy nhà vua đến liền vội vã đứng dậy nghênh đón, trong cũng luống cuống sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Chú tiểu đứng hầu bên cạnh định cúi xuống nhặt, nhưng một viên quan tùy tòng của vua đã nhanh tay nhặt quạt đưa cho sư cụ. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nảy ra một vế đối. Sau khi rời chùa, vua quan cùng nhau trò chuyện vui vẻ trong một bữa tiệc tại đình làng, trong lúc cao hứng, nhà vua đã ra vế đối thách các quan đối lại:
- Các khanh chắc còn nhớ việc tại ngôi chùa sáng nay, một đại thần đã nhặt giúp cho sư trụ trì chiếc quạt. Nay trẫm có vế đối như sau: “Ðường thượng tụng kinh sư sử sứ”.
Câu đối đó có nghĩa là: Trên bục tụng kinh sư khiến sứ, tức là nhà sư sai khiến được quan. Nội dung câu đối ra không khó, nhưng oái ăm ở ba chữ đồng âm liên tiếp nhau là sư, sử, sứ. Nó khiến các quan đều cau mày suy nghĩ để tìm ra câu thích hợp đối lại. Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì, cũng dường như chẳng để tâm suy nghĩ về vế đối kia, ông vẫy tay ra hiệu gọi chú lính hầu của mình lại rỉ tai thì thầm mấy câu. Anh lính nghe xong thì chạy biến đi.
Vua Lê Thánh Tông thấy không ai nhanh chóng đối được bèn quay lại chỉ đích danh Lương Thế Vinh phải đối, nhưng ông chỉ cười trừ xin khất trong chốc lát. Một lúc sau vợ quan Trạng đến, ông lấy cớ uống rượu say quá xin phép vua cho vợ dìu mình về nhà nghỉ ngơi. Tưởng rằng một người có tài tài ứng đối như Lương Thế Vinh mà hôm nay cũng gặp thế bí đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền hỏi:
- Thế nào ái khanh? Ðối được hay không thì phải nói đã rồi hẵng về chứ?
Lương Thế Vinh gãi đầu, gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng đáp:
- Dạ... muôn tâu thánh thượng, hạ thần đối rồi đấy ạ!
Vua và các quan lấy làm lạ, ngạc nhiên nhìn nhau không rõ quan Trạng đang đùa hay vì say rượu mà lú lẫn. Mọi người gạn hỏi mãi, Lương Thế Vinh mới chỉ tay vào người vợ đang dìu mình, mà đọc rằng:
- Ðình tiền túy tửu, phụ phù phu.
Vế đối lại của ông có nghĩa là: Trước sân say rượu, vợ dìu chồng. Trong vế đối cũng có ba chữ cuối đồng âm là phụ, phù, phu. Nhà vua tươi cười truyền lệnh thưởng rất hậu cho Lương Thế Vinh còn các quan đồng liêu cũng hết sức thán phục, nể trọng tài năng của ông.
Mối tình đầu dang dở
Là một người rất giỏi Nho học, sách nào cũng đọc, hiểu biết rộng, có tài năng trong lĩnh vực toán học, tôn giáo, âm nhạc…, Lương Thế Vinh chính là người soạn cuốn Đại thành toán pháp nổi tiếng, chế tạo ra bàn tính gẩy, là tác giả của Thích giáo khoa Phật kinh thập giới nói về 10 điều răn dạy của Đức Phật cùng cuốn Thiền môn giáo khoa. Ông còn tham gia soạn lễ nhạc triều đình, sáng tác âm nhạc, soạn cuốn Hý phường phả lục nói về nghệ thuật chèo như các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa hát và đặc biệt nhất Lương Thế Vinh được coi là người đặt nền móng cho loại hình đặc sắc: múa rối nước.
Không chỉ giỏi thơ văn, tính toán, Lương Thế Vinh còn thích đến với những phường hát chèo, hỏi han về tích hát, về đàn sáo, và rất am hiểu lĩnh vực nghệ thuật này. Một lần vua cho vời phường chèo đến hát mừng xuân, Lương Thế Vinh cũng vui vẻ ngồi kéo nhị và tham gia một vai diễn. Loại hình nghệ thuật ca múa nhạc truyền thống có sức cuốn hút rất lớn với ông, tương truyền từ khi còn nhỏ, Lương Thế Vinh đã thích ngồi nghe cha mình thổi sáo, kéo nhị và xin được học bằng được. Với những buổi biểu diễn chèo, quanh vùng mỗi khi có tiếng trống chèo nổi lên là y như rằng Lương Thế Vinh có mặt, xem một cách say mê, thích thú và cũng từ những buổi xem chèo, mối tình đầu đã nảy nở trong trái tim con người mang trong mình chất lãng tử, mê ca hát và cuộc sống phóng khoáng, vui vẻ nơi thôn dã. Đúng như ca dao có câu:
Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo.
Ở tuổi trưởng thành, cũng như thói quen vốn có, lần ấy nghe tiếng trống chèo giục giã, Lương Thế Vinh đã thấy rộn ràng trong người liền cùng bạn bè rủ nhau đi xem khi biết có một đoàn chèo đến diễn ở làng Si (nay thuộc xã Vĩnh Hảo, huyện Vụ Bản, Nam Định). Khi dân chúng trong vùng đã tập trung đông nghịt, buổi diễn sắp bắt đầu thì bỗng nhiên người kéo nhị không may bị cảm đột ngột, chưa có ai thay thế, tiếng xì xào bàn tán lao xao: Không có tiếng nhị thì làm sao mà diễn chèo được?.
Thế rồi, như số phận bày đặt, đúng lúc ấy Lương Thế Vinh đến, biết chuyện liền lách qua đám đông đến xin tình nguyện chơi đàn nhị thay cho nhạc công bị cảm. Không ít người xem hát hôm đó nhìn chàng trai với vẻ không tin tưởng, nhưng cũng có người biết tài của Lương Thế Vinh liền lên tiếng ủng hộ, người trùm trưởng của phường chèo không rõ sự tình ra sao nhưng rồi không còn cách nào khác, đành mời vào kéo đàn nhị giúp.
|
Tranh minh họa.
|
Buổi diễn bắt đầu, người xem nhanh chóng bị chinh phục bởi tiếng đàn nhị thành thạo và điêu luyện, đây đó có tiếng khen tấm tắc vang lên. Trên chiếu chèo, tiếng nhị dường như cũng khiến các diễn viên thể hiện hay hơn, nhất là cô đào nhất diễn càng xuất sắc với giọng ca mượt mà, đằm thắm. Từ bất ngờ cho đến cảm phục, cô đào hát mà cũng là gửi gắm tình cảm cá nhân của mình:
Biển tình mênh mông, biển tình dâu bể
Sẽ nâng niu ai vững lái chồng chèo?
Và rồi cô hát điệu chức cẩm hồi văn, đôi mắt hướng ánh nhìn thắm thiết xao xuyến lạ lùng về chàng nhạc công đang say sưa kéo nhị:
Thiếp xin chàng đèn sách văn chương
Dầu hao thiếp rót
Bấc non thiếp ngắt
Ngọn đèn tàn thiếp khâu…
Sau khi buổi diễn kết thúc, cô đào đã chủ động đến gặp ngỏ lời cảm ơn Lương Thế Vinh. Tuy mới gặp mà dường như đã biết nhau từ lâu, hai người trò chuyện vui vẻ, quyến luyến. Bởi vậy mà ông có được một lần trong đời nói chuyện kề cận bên nàng. Biết Lương Thế Vinh sắp đi thi, dẫu rất có cảm tình với chàng nhưng cô đào không dám thổ lộ vì mình là phận gái ai làm chuyện “cọc đi tìm trâu”, cũng vì tình cảm sợ ảnh hưởng đến bước đường công danh của chàng, hơn nữa quan niệm Nho giáo khắt khe, những kẻ như mình là phận “xướng ca vô loài” hèn kém, sao sánh được mà đòi với cao với con người tài đức đó mà tương lai chắc chắn sẽ hiển đạt khi gặp hội rồng mây. Còn Lương Thế Vinh cũng mê mệt tiếng hát và nét duyên đằm thắm của cô đào, chàng đã đắm đuối nhìn như muốn ngỏ lời hẹn hò gặp gỡ, nhưng cô đào chỉ động viên chuyện học hành, thi cử không cho biết cả tên tuổi lẫn quê quán của mình… Hôm sau phường chèo rời đi diễn ở nơi khác, Lương Thế Vinh muốn đi tìm cô đào mà ông luôn nhớ nhưng không cách gì tìm được…
Thời gian thấm thoát trôi qua, Lương Thế Vinh đăng tên tham dự, đỗ Giải Nguyên trong kỳ thi Hương, rồi vượt qua kỳ thi Hội với danh hiệu Hội Nguyên, vào thi Đình, đoạt học vị Trạng Nguyên. Khi về vinh quy bái tổ, ông lấy con gái thầy học của mình khi cha mẹ hối thúc mau chóng yên bề gia thất, muốn tiểu đăng khoa cùng với đại đăng khoa, “song hỉ lâm môn”.
Truyền rằng để đón mừng quan Trạng, các quan lại và chức dịch địa phương cùng dân làng mở hội để khao vọng, có mời gánh chèo đến hát góp vui. Đinh mệnh thật trớ trêu, trong gánh chèo đó có cô đào năm xưa! Biết chuyện chàng trai kéo nhị ngày trước nay đã đỗ Trạng nguyên, lại vừa có vợ, cô đào thấy buồn tê tái, đêm đó cô đem tất cả tâm sự của mình gửi vào lời ca, cô hát hay đến mức rất nhiều người xúc động đến rơi nước mắt. Cũng trong đêm đó, tủi cho số phận hẩm hiu, cô đào để lại một bài thơ tuyệt mệnh rồi tự tử!. Hay tin dữ, Trạng nguyên Lương Thế Vinh vô cùng đau đớn xót thương, tự làm bài văn tế thống thiết bi ai, sau đó ông cho lập miếu thờ cô đào tại giáp Nhất của làng Cao Hương, dân làng gọi đó là miếu Ả Đào và thôn có ngôi miếu thì gọi là Đào thôn hoặc xóm Đầu.
Sau khi Lương Thế Vinh qua đời, nhớ ơn công đức của ông, dân làng đã lập đền thờ tôn ông làm phúc thần, thế là Cao Hương trước có miếu Ả Đào, nay có thêm đền thờ quan Trạng. Số phận không cho hai con người tài hoa đến được với nhau nhưng hẳn ở nơi suối vàng, chốn u linh huyền ảo họ sẽ ở bên nhau.
Bài thơ khước từ lương duyên
Ngoài mối tình buồn với cô đào nương, Lương Thế Vinh còn có một mối tình nữa nhưng quan hệ giữa hai người cũng không thể kết thành đôi bởi chính ông đã chủ động khước từ chuyện lương duyên này. Tương truyền sau khi đỗ thi Hương, Lương Thế Vinh về kinh đô Thăng Long ôn luyện thêm kinh sách, chờ ngày vào thi Hội. Nhiều cử nhân Nho học cũng tập trung rất đông, trong số những nho sinh, văn sĩ mới quen biết, có một người nhà ở Hàng Đào rất khâm phục danh tiếng của chàng thanh niên từng được mệnh danh là thần đồng làng Hương, anh tài đất Sơn Nam nên một mực mời về nhà mình.
Nhà người bạn mới này gia cảnh khá giả, anh ta có một người em gái tên là Thị Liệu nhan sắc xinh đẹp, được học hành chu đáo, biết làm thơ vẽ tranh nên có ý muốn gán ghép cho bạn. Qua đôi lần đi lại, gia đình cô gái rất ưng ý nhắm làm con rể, Thị Liệu cũng tỏ ý yêu thương thuận lòng, còn Lương Thế Vinh cũng có cảm tình với người đẹp.
Trước hôm vào thi Hội, Lương Thế Vinh đến từ biệt Thị Liệu để về quê lấy thêm tiền, gạo và cũng để thưa chuyện với cha mẹ tính chuyện mai mối đám này. Khi chia tay, cô gái không nói lời khích lệ mà đưa cho chàng một bài thơ không đề viết bằng chữ Hán:
Thủ huề lợi phủ thượng sơn lâm,
Nhất thất tiều phu nhật nhập thâm.
Yên hạ hoành đao từ bộ chí,
Phương môn môn nội hữu tình nhân.
Nghĩa là:
Tay cầm búa sắc vượt rừng sâu,
Một gã tiều phu chẳng đợi lâu.
Lưng giắt ngang đao thong thả bước,
Cửa vuông, trong cửa đón yêu nhau.
Đọc xong bài thơ, Lương Thế Vinh rất buồn, chàng hiểu ngay ý nghĩ của cô gái, nàng tỏ vẻ kiêu kỳ, hóa ra tình cảm có động cơ khác, chỉ say mê mình vì danh vọng, cô muốn nếu thi đỗ thì mới có chuyện tình duyên, chứ còn không thì đừng nghĩ đến nữa… Tình yêu toan tính đó thật khó mà bền lâu được, suy nghĩ chốc lát, Lương Thế Vinh viết một bài thơ tứ tuyệt họa lại gửi nàng:
Hà lao tâm lực nhập sơn lâm
Thế vấn xuân quang sắc thiểu thâm.
Bất dụng yên đao nguyên nhật chỉ,
Kinh sư bất thiểu hữu tình nhân.
Nghĩa là:
Cần chi vất vả tới rừng sâu,
Thử hỏi ngày xuân được bấy lâu?
Giữa hội chẳng cần đao dẫu quý
Kinh kỳ nào thiếu kẻ yêu nhau.
Qua bài thơ của mình, Lương Thế Vinh đã nói rõ quan điểm, với ông hôn nhân và tình yêu phải ở tình cảm chân thành, nếu yêu vì danh vì lợi thì không thể có hạnh phúc. Thế là từ đó, Lương Thế Vinh không bao giờ qua lại nhà cô gái đó nữa và rồi quên hẳn mối duyên tình này để lo cho chuyện thi cử, chuyện quan trường và gia đình.