Các chuyên gia phân tích quân sự tin rằng, lực lượng phòng không Triều Tiên đang sở hữu rất nhiều hệ thống tên lửa phòng không, trong đó chủ yếu là S-75, S-125 và S-200. Với những hệ thống tên lửa này, Triều Tiên hoàn toàn có khả năng chống đỡ trước các đòn tấn công phủ đầu bằng không quân của liên quân Mỹ và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, khoan hãy nói tới sức mạnh phòng thủ của các tên lửa thuộc những hệ thống trên, Kiến Thức muốn cung cấp cho độc giả cái nhìn sâu sắc hơn về các loại radar của những hệ thống phòng thủ này - thành phần quan trọng nhất và được coi là “con mắt” của bất kỳ một hệ thống phòng thủ tên lửa nào trên thế giới hiện nay.
Radar P-18 Terek của hệ thống S-75
S-75 Dvina (NATO gọi là SA-2 Guideline) là một tổ hợp tên lửa đất đối không tầm cao được điều khiển bằng hệ thống radar ba tác dụng do Liên Xô chế tạo.
Hệ thống S-75 sử dụng radar cảnh báo sớm P-18 Terek có thể theo dõi cùng lúc 120 mục tiêu với tầm hoạt động khoảng 275km, độ cao giám sát 35km, có khả năng quay 360 độ, công suất 260kW, góc tà -5 - 150, độ sai lệch 1 km. Radar P-18 Terek cung cấp thông tin trinh sát cảnh báo sớm liên quan tới tên lửa, máy bay địch đang tới và sau đó chuyển nó cho radar điều khiển hỏa lực SNR-75 Fan Song.
|
Radar P-18 Terek. Ảnh: Wikipedia.org |
Đài SNR-75 gồm hai angten hoạt động ở các tần số khác nhau, một angten cung cấp thông tin về độ cao và một angten thu thập thông tin về góc phương vị. Sau khi phát hiện mục tiêu, các radar trên sẽ đồng loạt được kích hoạt để thu thập các thông tin có liên quan như: loại mục tiêu, tốc độ, độ cao, góc tà... Sau đó những thông tin này được gửi về trung tâm chỉ huy để ra quyết định sử dụng phương thức đánh chặn cho phù hợp.
Radar P-15M của hệ thống S-125
Hệ thống tên lửa phòng không S-125 được Liên Xô phát triển và chuyển giao cho
Quân đội Triều Tiên. Hệ thống này sử dụng hai loại tên lửa là V-600 và V-601 có tầm bắn lần lượt là 15km và 28km, với độ cao tác chiến lần lượt là 10km và 18km, tốc độ cực đại có thể đạt tới từ 3 - 3,5Mach. Hệ thống tên lửa phòng không này được điều khiển bởi 1 đài chỉ huy và 3 hệ thống radar P-15M.
|
Radar P-15M. Ảnh: Kbradar.by |
P-15M là một radar hoạt động trên băng tần C, công suất 380 kW, có khả năng giám sát, bắt bám mục tiêu và cung cấp thông tin cho hệ thống tên lửa với tầm hoạt động lên tới 250km.
Radar P-15M sử dụng hai anten parabol elip khung mở thực hiện đồng thời cả phát và thu tín hiệu, có tính cơ động cao do anten được đặt trực tiếp trên một xe tải Zil-157 nên hệ thống có thể được triển khai trong thời gian chưa đến 10 phút. P-15M có thể nhanh chóng dịch tần số của mình lên một trong bốn tần số ấn định trước để tránh nhiễu chủ động, nhiễu thụ động bị loại bỏ bởi một bộ lọc doppler liên kết.
Trong quá trình trinh sát mục tiêu, P-15M còn được hỗ trợ bởi radar đo độ cao PRV-11 và radar điều khiển hỏa lực SNR-125. Trong đó, RV-11 là đài radar đo cao băng tần E có phạm vi hoạt động 28km, độ cao đo được lên tới 32km. SNR-125 là radar bám mục tiêu, điều khiển tên lửa băng tần I/D, công suất 250kW, có khả năng phát hiện mục tiêu là máy bay tiêm kích ở cự ly 40km.
Radar 5N62 của hệ thống S-200
Hệ thống
tên lửa phòng không S-200 của Triều Tiên sử dụng đài radar 5N62 (NATO gọi là Square Pair), đài radar này được đặt ở giữa một trận địa S-200, xung quanh là 6 bệ phóng 5P27. Đài radar điều khiển 5N62 hoạt động trên băng tần H, dùng cho cả nhiệm vụ phát hiện, bắt bám và dẫn đường cho đầu tự dẫn của tên lửa để tấn công mục tiêu. Nó có khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách lên tới 270km.
|
Radar 5N62. Ảnh: Wikipedia.org |
Nguyên lý hoạt động của nó là: phát hiện, theo dõi và chiếu xạ vào mục tiêu là tên lửa hoặc máy bay địch, đầu tự dẫn radar bán chủ động tên lửa sẽ thu sóng phản xạ từ mục tiêu địch và tự động lái tên lửa tấn công. Đài radar 5N62 được đặt trên xe rơ mooc OdAZ-828 và thường được hỗ trợ trinh sát, theo bám mục tiêu bởi một số loại radar khác tăng tầm để phát hiện mục tiêu như: Radar báo động sớm 5N84A có tầm trinh sát 600km, độ cao tìm kiếm 46km; radar đo độ cao PRV-17 có tầm trinh sát 240km; radar P-14/5N84A băng tần A có tầm phát hiện mục tiêu lên tới 600 km, tốc độ quay 2 - 6 vòng/phút, độ cao tìm kiếm cực đại đạt 46km; radar Kabina 66/5N87 băng tần E tầm hoạt động 370km, tốc độ quay 3 - 6 vòng/phút.