Súng ngắn là vật bất ly thân của các cấp chỉ huy trong quân đội. Hiện trong Quân đội Nhân dân Việt Nam đang sử dụng các loại súng chính bao gồm K54 trang bị cho các cấp sĩ quan từ đại úy trở xuống, K59 trang bị cho sĩ quan cấp tá trở lên và K14 dự định sẽ thay thế K54 và K59 trong tương lai.K54 là súng ngắn được sử dụng với số lượng lớn nhất, K54 là cách gọi Việt hóa của dòng súng “Type 1954”, đây là phiên bản copy của khẩu TT-33 nổi tiếng của Liên Xô. Hiện tại Việt Nam đang sử dụng cả phiên bản TT-33 do Liên Xô sản xuất, Type1954 do Trung Quốc sản xuất, và K54VN do Việt Nam sản xuất.Thông số cơ bản của súng: Trọng lượng rỗng 0,84kg, khi nạp đầy đạn 0,91kg. Chiều dài 194mm, rộng 32,1mm, cao 134mm; nòng súng có chiều dài 116mm. Súng dùng loại đạn 7,62mmx25mm. Sơ tốc đầu nòng đạt 420m/s, tầm bắn hiệu quả 50mm, hộp tiếp đạn chứa được 8 viên.Toàn bộ thân súng chính được làm bằng thép tôi cho độ bền cực cao, miếng ốp tay có thể làm bằng gỗ hoặc nhựa ở các phiên bản sản xuất sau này. Các bộ phận gắn kết với nhau thông qua các khe, rãnh, lẫy và chốt hãm, trên súng không sử dụng bất cứ đinh vít nào.Việc tháo lắp, bảo dưỡng, sửa chữa rất đơn giản, chỉ cần sử dụng hộp tiếp đạn và tay không là có thể tháo rời khẩu súng thành từng bộ phận để lau chùi, bảo dưỡng sửa chữa.Do cấu tạo đơn giản và khá đồng nhất nên người lính thợ có thể dễ dàng loại bỏ cấu kiện hư và dồn ghép những cấu kiện còn tốt lại thành khẩu súng hoàn chỉnh.Được đưa vào sản xuất hàng loạt từ năm 1934, súng TT-33(K54) và các biến thể của nó được coi là khẩu súng ngắn được sản xuất nhiều nhất, riêng trong Thế chiến thứ hai đã có khoảng 600.000 khẩu được xuất xưởng. Súng hiện tại vẫn là trang bị chính trong một số quốc gia trong đó có Việt Nam.K59 là tên Việt hóa của khẩu Type 1959, đây là mẫu súng Trung Quốc sao chép của khẩu Makarov hay còn gọi là PM của Liên Xô. Khẩu súng này được kỹ sư Nikolay Makarov thiết kế vào cuối thập niên 1940 nhằm thiết kế một khẩu súng ngắn tiêu chuẩn mới cho sĩ quan Quân đội Xô Viết.Thông số cơ bản của súng: Trọng lượng rỗng 0,73kg, khi nạp đầy đạn 0,81kg. Chiều dài 161,5mm, rộng 30,5mm, cao 126,7mm; nòng súng có chiều dài 93,5mm. Súng dùng loại đạn 9 mmx18mm. Sơ tốc đầu nòng đạt 315m/s, tầm bắn hiệu quả 50mm, hộp tiếp đạn chứa được 8-12 viên.So với súng K54 thì K59 có kích cỡ nhỏ hơn, nhẹ hơn, nhưng lại bắn cỡ đạn lớn hơn. Súng sử dụng cỡ đạn 9 x 18 mm mới có giá thành sản xuất tương đối thấp, loại đạn này có sức xuyên phá mạnh ở tầm gần. Hộp tiếp đạn nguyên bản của súng sử dụng lò so đẩy thẳng với sức chứa 8 viên ( lên đến 12 viên ở phiên bản cải tiến), có chốt chặn khóa nòng báo hết đạn.Thân súng K59 có thể làm bằng thép, hoặc hợp kim, các bộ phận cấu thành súng gắn kết với nhau nhờ các khe, chốt, và ốc vít. Ốp tay cầm làm bằng nhựa với vân nhám và được thiết kế ôm tay chắc hơn khi cầm nhằm đảm bảo tính ổn định khi bắn.K59 được đánh giá là loại súng có độ tin cậy cao, cấu tạo đơn giản, ít bộ phận chuyển động, kinh tế, dễ chế tạo, độ chính xác cao, sự dụng tiên lợi, dễ bảo quản, sửa chữa và hiệu chỉnh. Súng vẫn đang hoạt động trong biên chế của hơn 30 nước.Trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam K59 vẫn đang được sử dụng tích cực, tuy không phổ biến như K54; hiện tại K59 đang được trang bị cho các sĩ quan mang hàm thiếu tá trở lên.K14 là thành quả sáng tạo không biết mệt mỏi của đội ngũ cán bộ kỹ sư Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam. Được giới thiệu vào năm 2014, súng đang trong những giai đoạn thử nghiệm đánh giá cuối cùng, để chính thức đi vào sản xuất đại trà.Trong quá trình sản xuất và cải tiến súng ngắn K54 do Việt Nam sản xuất, nhóm đề tài thuộc nhà máy Z111 đã tạo ra phiên bản K14 với nhiều ưu điểm vượt trội so với các súng đang được trang bị trước đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam.Với biến thể K14, nòng súng được kéo dài thêm 11mm, như thế với tổng chiều dài nòng lên tới 127mm, súng cho đường đạn căng và chuẩn xác hơn. Súng sử dụng đạn cỡ 7,62mm x 25mm, sơ tốc đầu nòng ước đạt >420m/s, tầm bắn hiệu quả khoảng 55m.Ngoài kích cỡ nòng được kéo dài, súng cũng được thiết kế buồng đạn với thông số đảm bảo tính chính xác hơn, tay cầm được thiết kế lớn hơn để chứa hộp đạn kép hai hàng. Súng có thể mang tới 13 viên đạn, hơn hẳn 5 viên so với K54.Súng được sử dụng loại thép tôi luyện đặc biệt cho giới hạn thay nòng tốt hơn hẳn so với K54. Súng vẫn giữ được những đặc điểm lợi thế của dòng K54 như dễ tháo lắp, bảo trì và sửa chữa. Nhược điểm của dòng K54 là tay cầm không có độ ôm tay đã được cải tiến hoàn toàn trên K14 giúp xạ thủ có lợi thế khi bắn.Thành công của súng K14 cho thấy sự phát triển của nền Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam trong những năm gần đây. Tương lai hy vọng vào một loai súng ngắn trang bị rộng rãi cho quân đội, dần thay thế cho những chiến binh lão làng như K54 đang trở thành hiện thực.
Súng ngắn là vật bất ly thân của các cấp chỉ huy trong quân đội. Hiện trong Quân đội Nhân dân Việt Nam đang sử dụng các loại súng chính bao gồm K54 trang bị cho các cấp sĩ quan từ đại úy trở xuống, K59 trang bị cho sĩ quan cấp tá trở lên và K14 dự định sẽ thay thế K54 và K59 trong tương lai.
K54 là súng ngắn được sử dụng với số lượng lớn nhất, K54 là cách gọi Việt hóa của dòng súng “Type 1954”, đây là phiên bản copy của khẩu TT-33 nổi tiếng của Liên Xô. Hiện tại Việt Nam đang sử dụng cả phiên bản TT-33 do Liên Xô sản xuất, Type1954 do Trung Quốc sản xuất, và K54VN do Việt Nam sản xuất.
Thông số cơ bản của súng: Trọng lượng rỗng 0,84kg, khi nạp đầy đạn 0,91kg. Chiều dài 194mm, rộng 32,1mm, cao 134mm; nòng súng có chiều dài 116mm. Súng dùng loại đạn 7,62mmx25mm. Sơ tốc đầu nòng đạt 420m/s, tầm bắn hiệu quả 50mm, hộp tiếp đạn chứa được 8 viên.
Toàn bộ thân súng chính được làm bằng thép tôi cho độ bền cực cao, miếng ốp tay có thể làm bằng gỗ hoặc nhựa ở các phiên bản sản xuất sau này. Các bộ phận gắn kết với nhau thông qua các khe, rãnh, lẫy và chốt hãm, trên súng không sử dụng bất cứ đinh vít nào.
Việc tháo lắp, bảo dưỡng, sửa chữa rất đơn giản, chỉ cần sử dụng hộp tiếp đạn và tay không là có thể tháo rời khẩu súng thành từng bộ phận để lau chùi, bảo dưỡng sửa chữa.Do cấu tạo đơn giản và khá đồng nhất nên người lính thợ có thể dễ dàng loại bỏ cấu kiện hư và dồn ghép những cấu kiện còn tốt lại thành khẩu súng hoàn chỉnh.
Được đưa vào sản xuất hàng loạt từ năm 1934, súng TT-33(K54) và các biến thể của nó được coi là khẩu súng ngắn được sản xuất nhiều nhất, riêng trong Thế chiến thứ hai đã có khoảng 600.000 khẩu được xuất xưởng. Súng hiện tại vẫn là trang bị chính trong một số quốc gia trong đó có Việt Nam.
K59 là tên Việt hóa của khẩu Type 1959, đây là mẫu súng Trung Quốc sao chép của khẩu Makarov hay còn gọi là PM của Liên Xô. Khẩu súng này được kỹ sư Nikolay Makarov thiết kế vào cuối thập niên 1940 nhằm thiết kế một khẩu súng ngắn tiêu chuẩn mới cho sĩ quan Quân đội Xô Viết.
Thông số cơ bản của súng: Trọng lượng rỗng 0,73kg, khi nạp đầy đạn 0,81kg. Chiều dài 161,5mm, rộng 30,5mm, cao 126,7mm; nòng súng có chiều dài 93,5mm. Súng dùng loại đạn 9 mmx18mm. Sơ tốc đầu nòng đạt 315m/s, tầm bắn hiệu quả 50mm, hộp tiếp đạn chứa được 8-12 viên.
So với súng K54 thì K59 có kích cỡ nhỏ hơn, nhẹ hơn, nhưng lại bắn cỡ đạn lớn hơn. Súng sử dụng cỡ đạn 9 x 18 mm mới có giá thành sản xuất tương đối thấp, loại đạn này có sức xuyên phá mạnh ở tầm gần. Hộp tiếp đạn nguyên bản của súng sử dụng lò so đẩy thẳng với sức chứa 8 viên ( lên đến 12 viên ở phiên bản cải tiến), có chốt chặn khóa nòng báo hết đạn.
Thân súng K59 có thể làm bằng thép, hoặc hợp kim, các bộ phận cấu thành súng gắn kết với nhau nhờ các khe, chốt, và ốc vít. Ốp tay cầm làm bằng nhựa với vân nhám và được thiết kế ôm tay chắc hơn khi cầm nhằm đảm bảo tính ổn định khi bắn.
K59 được đánh giá là loại súng có độ tin cậy cao, cấu tạo đơn giản, ít bộ phận chuyển động, kinh tế, dễ chế tạo, độ chính xác cao, sự dụng tiên lợi, dễ bảo quản, sửa chữa và hiệu chỉnh. Súng vẫn đang hoạt động trong biên chế của hơn 30 nước.
Trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam K59 vẫn đang được sử dụng tích cực, tuy không phổ biến như K54; hiện tại K59 đang được trang bị cho các sĩ quan mang hàm thiếu tá trở lên.
K14 là thành quả sáng tạo không biết mệt mỏi của đội ngũ cán bộ kỹ sư Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam. Được giới thiệu vào năm 2014, súng đang trong những giai đoạn thử nghiệm đánh giá cuối cùng, để chính thức đi vào sản xuất đại trà.
Trong quá trình sản xuất và cải tiến súng ngắn K54 do Việt Nam sản xuất, nhóm đề tài thuộc nhà máy Z111 đã tạo ra phiên bản K14 với nhiều ưu điểm vượt trội so với các súng đang được trang bị trước đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Với biến thể K14, nòng súng được kéo dài thêm 11mm, như thế với tổng chiều dài nòng lên tới 127mm, súng cho đường đạn căng và chuẩn xác hơn. Súng sử dụng đạn cỡ 7,62mm x 25mm, sơ tốc đầu nòng ước đạt >420m/s, tầm bắn hiệu quả khoảng 55m.
Ngoài kích cỡ nòng được kéo dài, súng cũng được thiết kế buồng đạn với thông số đảm bảo tính chính xác hơn, tay cầm được thiết kế lớn hơn để chứa hộp đạn kép hai hàng. Súng có thể mang tới 13 viên đạn, hơn hẳn 5 viên so với K54.
Súng được sử dụng loại thép tôi luyện đặc biệt cho giới hạn thay nòng tốt hơn hẳn so với K54. Súng vẫn giữ được những đặc điểm lợi thế của dòng K54 như dễ tháo lắp, bảo trì và sửa chữa. Nhược điểm của dòng K54 là tay cầm không có độ ôm tay đã được cải tiến hoàn toàn trên K14 giúp xạ thủ có lợi thế khi bắn.
Thành công của súng K14 cho thấy sự phát triển của nền Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam trong những năm gần đây. Tương lai hy vọng vào một loai súng ngắn trang bị rộng rãi cho quân đội, dần thay thế cho những chiến binh lão làng như K54 đang trở thành hiện thực.