Nguyễn Công Trứ, vị khai khẩn và trị thủy kiệt xuất của Việt Nam

Nguyễn Công Trứ để lại dấu ấn lớn trong lịch sử thủy lợi, trị thủy ở Việt Nam với những công trình được tổ chức bài bản và vận hành ổn định gần hai thế kỷ.

Lịch sử trị thủy Việt Nam không chỉ có những con đê cổ hay các triều đại kỷ cương, mà còn có những cá nhân định hình được mô hình quản lý đất nước theo nghĩa hiện đại. Nguyễn Công Trứ là một trong số ít nhân vật ấy.

nguyen-cong-tru.jpg
Nguyễn Công Trứ, vị khai khẩn và trị thủy kiệt xuất của Việt Nam.

Người đặt nền mô hình trị thủy, khai khẩn ở Bắc Bộ

Khi được triều Minh Mạng bổ nhiệm chức Doanh điền sứ năm 1828, Nguyễn Công Trứ nắm trong tay trách nhiệm điều hành công cuộc khai khẩn các vùng bãi bồi ven biển Bắc Bộ khu vực rộng lớn, liên tục biến đổi theo thủy triều và rất khó kiểm soát.

Trong giai đoạn triều Nguyễn đang tiến hành cuộc thảo luận lớn về vấn đề “giữ đê hay bỏ đê ở Bắc Kỳ”, Nguyễn Công Trứ được Minh Mệnh cử tham gia đoàn khảo sát trị thủy sông Hồng cùng Thự tổng đốc Định Yên Trịnh Quang Khanh và Tuần phủ Hưng Yên Hà Thúc Lương. Nhiệm vụ của đoàn là đo đạc, đánh giá toàn tuyến đê sông Hồng và trình bày phương án trước triều đình.

Tại buổi tham luận, Nguyễn Công Trứ đưa ra ý kiến cho cả hai khả năng. Nếu bỏ đê, theo ông, triều đình buộc phải di dân khỏi các vùng trũng ven sông để khơi lại một loạt sông nhánh hoặc vét sâu thêm, thậm chí nắn lại các đường sông. Chỉ khi mở được nhiều cửa thoát nước thì lũ mới phân tán và nhanh chóng ra biển. Ngược lại, nếu không chấp nhận chi phí và không di dân thì sẽ không thể mở rộng hệ thống sông đào, dòng chảy sẽ bị bó hẹp, nước lũ dâng cao, và khi đó có muốn di dân cũng không kịp.

Với phương án giữ đê, Nguyễn Công Trứ cho rằng phải củng cố toàn tuyến, đặc biệt là chân đê ở các đoạn xung yếu. Tuy nhiên ông thẳng thắn nhận định: chỉ đắp đê thì không thể trị thủy thành công.

Theo lập luận của ông, muốn giảm áp lực nước phải “khơi sông”, và việc cần làm trước hết là đào lại cửa sông Thiên Đức (sông Đuống) để chia dòng, chứ không phải đào sông Cửu An như nhiều đình thần đề xuất. Ý kiến này không được Minh Mệnh chấp thuận. Nhà vua chủ trương chỉ cần khơi sông Cửu An để rút bớt nước sông Hồng, giải tỏa lũ cho các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định.

Tháng 2/1835, vua Minh Mệnh ra lệnh khơi sông Cửu An. Đến tháng 10 cùng năm, Nguyễn Công Trứ khi đó là Tổng đốc Hải Yên được điều phối thực thi cùng Trịnh Quang Khanh và Hà Thúc Lương. Dù kế hoạch đã được Bộ Công và đình thần phê chuẩn, Nguyễn Công Trứ vẫn kiến nghị một loạt biện pháp kỹ thuật cụ thể. Ông đề nghị tận dụng các đoạn đê vỡ từ Nghi Xuyên đến đầm Sài Thị làm cửa thoát nước tự nhiên, đào sâu xuống để dòng lũ sông Hồng chảy vào, tránh bị bồi lấp. Ông cũng đề xuất điều chỉnh quy mô đê hai bên bờ theo thực trạng dòng chảy và độ uốn lượn: đoạn gần thượng lưu cần cao và chắc, về xuôi giảm dần cao độ nhưng phải nối dài đến tận cửa sông Thái Bình, tức kéo thêm gần 70 dặm (khoảng 72 km). Bên cạnh đó, ông yêu cầu huy động thêm khoảng 7.000 dân công từ Hà Nội và Bắc Ninh để đáp ứng khối lượng thi công.

Những đề xuất này bị đình thần và Bộ Công bác bỏ, song Minh Mệnh lại chuẩn thuận. Ba quan chỉ huy, Trịnh Quang Khanh, Hà Thúc Lương và Nguyễn Công Trứ phải thi hành theo lệnh vua. Công trình Cửu An được triển khai trong ba mùa khô từ 1835 đến 1837 với chi phí lớn: 395.440 quan tiền, 22.750 phương gạo và hơn một vạn dân công. Dù vậy, việc khơi sông Cửu An vẫn không ngăn được tình trạng vỡ đê sông Hồng. Tới năm 1837, trước thực tế đó, Nguyễn Công Trứ lúc này phối hợp với quyền Tổng đốc Tôn Thất Bật – tiếp tục kiến nghị đào lại cửa sông Thiên Đức để phân lưu cho sông Hồng. Đề xuất vẫn không được chấp nhận.

Mãi hơn hai thập niên sau, năm 1859, sau khi nhận được nhiều bản điều trần của các quan năm tỉnh Bắc Kỳ (Sơn Tây, Hà Ninh, Ninh Thái, Hải An, Định An), triều đình Tự Đức mới cho khơi lại cửa Thiên Đức. Khi công trình được tiến hành, Nguyễn Công Trứ đã qua đời một năm, năm 1858.

Cuộc đời vì dân

Nguyễn Công Trứ sinh năm 1778 tại Uy Viễn, Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Con đường học vấn của ông muộn hơn nhiều người cùng thời; đến năm 1819, khi tuổi đã ngoài 40, ông mới đỗ Giải nguyên. Tuy nhiên từ đó, sự nghiệp của ông diễn tiến nhanh và đa dạng. Ông kinh qua nhiều chức vụ: Hành tẩu Quốc sử quán, Tri huyện, Tham tán quân thứ, Thượng thư Bộ Hình, Tổng đốc, rồi Doanh điền sứ – chức vụ giúp ông thể hiện trọn vẹn khả năng quan sát thực địa và tổ chức dân cư.

Tại mỗi vị trí, ông đều được ghi nhận vì tính thẳng thắn và phong cách làm việc trực tiếp. Hệ thống thuỷ nông do Nguyễn Công Trứ chỉ đạo đào đắp ở Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình – cũ) được đánh giá là hệ thống duy nhất đạt đến trình độ khoa học ở ngoài Bắc vào thế kỷ thứ XIX

Khi khảo sát vùng Kim Sơn, ông từng cải trang để vào bãi sình, tự xem xét dòng nước và địa thế trước khi đưa ra quyết định đào sông Ân, theo ghi chép của các tài liệu địa phương và triều chính. Những chuyến đi thực địa như vậy không chỉ phục vụ công việc khai hoang mà còn định hình phong cách hành chính của ông: không ra quyết định từ xa, không dựa vào báo cáo một chiều.

Ngoài công việc trị thủy, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật với phong cách độc lập, mạnh mẽ và tự ý thức. “Ngất ngưởng”, hình ảnh thường gắn với ông không chỉ là phong thái cá nhân, mà còn là thái độ trước quan trường: sẵn sàng chịu giáng chức, sẵn sàng nhận điều động, nhưng không bỏ nguyên tắc làm quan dựa trên hiệu quả thực tế.

Về cuối đời, khi nghe tin thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858, dù đã ngoài 80 tuổi, ông vẫn dâng sớ xin ra trận. Hành động ấy phản ánh nhất quán nhân cách của ông: kiên quyết, tận lực và đặt trách nhiệm lên trước lợi ích riêng. Ông qua đời cùng năm tại quê nhà.

Nhìn vào hành trình cuộc đời của ông, dễ nhận thấy Nguyễn Công Trứ không phải mẫu quan lại của bàn giấy, mà là người sẵn sàng đi từ làng quê đến biên viễn, từ triều đình ra bãi biển, đặt dấu chân ở nơi cần xử lý vấn đề thực tế nhất. Những Công trình trị thủy khai khẩn của ông vẫn được xem là minh chứng điển hình cho khả năng kết hợp tầm nhìn và hành động.

Tại những vùng đất được Nguyễn Công Trứ tổ chức khai hoang, nhân dân đã lập nhiều nơi thờ phụng để ghi nhớ công lao của ông. Tại làng Lạc Thiên, huyện Kim Sơn, ngôi “Truy tư từ” được dựng năm Tự Đức thứ 9 (1856); trước cửa đền đặt tấm biển khắc bốn chữ “Đồ hà tư công”, nghĩa là “thấy nước sông chảy nhớ ơn người đào”, gợi nhắc trực tiếp đến vai trò của ông trong việc trị thủy và khai dòng. Đến năm 1928, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập huyện Kim Sơn, người dân địa phương tiếp tục dựng bia ghi công Nguyễn Công Trứ; tấm bia ấy đến nay vẫn còn.

Những dấu tích tưởng niệm trải dài qua nhiều thế hệ cho thấy Nguyễn Công Trứ thực sự được xem là một trong những nhà khai hoang và trị thủy lớn nhất của Việt Nam thế kỷ XIX.

Đọc nhiều nhất

Tin mới