Cá lồng đèn có tên khoa học là Ceratioid Anglerfish, lần đầu được các nhà khoa học tìm thấy, mô tả và phân loại vào những năm 1830 của thế kỷ 19.Sở dĩ mãi đến tận thế kỉ 19 con người mới bắt đầu tìm thấy và nghiên cứu chúng là vì loài này sống ở tầng rất thấp của đại dương, nơi mà cả ánh sáng cũng khó có thể nào rọi xuống nơi đây.Trong khi nghiên cứu về loài cá này, các nhà khoa học không tìm thấy những con đực, họ không biết chúng như thế nào hay đang sinh sống ở đâu.Năm 1922, một nhà sinh vật học có tên Bjarni Saemundsson đã phát hiện thấy trên người của một con cá cái có hai con cá nhỏ hơn rất nhiều đang bám dính vào bụng của chúng.Ban đầu người ta cho rằng hai con cá nhỏ hơn kia là những con Anglerfish con đang bám theo mẹ. Tuy nhiên một số mâu thuẫn được đặt ra khi người ta không phát hiện thấy dấu hiệu nào cho thấy những trứng cá đã gắn vào bụng con cái vào trước đó.Anh chàng này quyết định giải phẫu chúng ra để nghiên cứu và phát hiện rằng những con cá nhỏ hơn đấy chính là những con cá đực. Hoá ra, những con cá đực không hề bị “mất tích” như người ta vẫn nghĩ gần một trăm năm qua, chúng vẫn ở đó suốt, bám trên người con cái.Vì kích thước quá nhỏ và khác biệt so với con cái nên các nhà khoa học đã nhận dạng và phân loại sai những con đực thành loài khác hoặc lầm tưởng đó là con non.Một con đực sẽ nhỏ hơn con cái tới khoảng 500.000 lần về khối lượng, và kích thước của nó chỉ dài khoảng 6-7mm. Sở dĩ sự khác biệt này có là do con đực không cần săn mồi, chúng không cần một bộ hàm to và gần như không phải làm gì hết vì chúng đã có con cái.Regan cho rằng con đực thực chất chỉ là một phần phụ của con cái, chúng phụ thuộc hoàn toàn vào con cái về dinh dưỡng, một dạng kí sinh thực sự.Và cũng chính những đặc điểm trên dẫn đếntập tính giao phối kì quáicủa loài này.Khi những con đực tìm kiếm bạn tình vào mùa giao phối, chúng sẽ dựa vào một loạipheromonedo con cái tiết ra để tìm kiếm con cái.Khi đã tìm thấy con cái, con đực sẽ cắn vào bụng con cái. Chúng sẽ tiết ra một loại chất hoá học làm cho vùng này của con cái phân huỷ ra, sau đó con đực sẽ bám vào chúng, hoà làm một theo đúng nghĩa đen.Phần da của cả hai sẽ liên kết với nhau và tạo thành một thể, thậm chí những phần mạch máu của con đực và con cái cũng sẽ liên kết với nhau, cả hai tạo thành một dạng sống thống nhất, hoà làm mộtVì phụ thuộc hoàn toàn vào con cái, ác cơ quan của con đực cũng dần bị teo lại, khô héo và thoái hoá dần. Một thời gian sau, cơ thể con đực không còn gì ngoài việc trông như một cục thịt mọc lên từ phần da bụng của con cái.Thực chất thì cục thịt này chính là một “bọc chứa tinh trùng” cung cấp cho con cái bất cứ khi nào con cái cần để thụ tinh.
Cá lồng đèn có tên khoa học là Ceratioid Anglerfish, lần đầu được các nhà khoa học tìm thấy, mô tả và phân loại vào những năm 1830 của thế kỷ 19.
Sở dĩ mãi đến tận thế kỉ 19 con người mới bắt đầu tìm thấy và nghiên cứu chúng là vì loài này sống ở tầng rất thấp của đại dương, nơi mà cả ánh sáng cũng khó có thể nào rọi xuống nơi đây.
Trong khi nghiên cứu về loài cá này, các nhà khoa học không tìm thấy những con đực, họ không biết chúng như thế nào hay đang sinh sống ở đâu.
Năm 1922, một nhà sinh vật học có tên Bjarni Saemundsson đã phát hiện thấy trên người của một con cá cái có hai con cá nhỏ hơn rất nhiều đang bám dính vào bụng của chúng.
Ban đầu người ta cho rằng hai con cá nhỏ hơn kia là những con Anglerfish con đang bám theo mẹ. Tuy nhiên một số mâu thuẫn được đặt ra khi người ta không phát hiện thấy dấu hiệu nào cho thấy những trứng cá đã gắn vào bụng con cái vào trước đó.
Anh chàng này quyết định giải phẫu chúng ra để nghiên cứu và phát hiện rằng những con cá nhỏ hơn đấy chính là những con cá đực. Hoá ra, những con cá đực không hề bị “mất tích” như người ta vẫn nghĩ gần một trăm năm qua, chúng vẫn ở đó suốt, bám trên người con cái.
Vì kích thước quá nhỏ và khác biệt so với con cái nên các nhà khoa học đã nhận dạng và phân loại sai những con đực thành loài khác hoặc lầm tưởng đó là con non.
Một con đực sẽ nhỏ hơn con cái tới khoảng 500.000 lần về khối lượng, và kích thước của nó chỉ dài khoảng 6-7mm. Sở dĩ sự khác biệt này có là do con đực không cần săn mồi, chúng không cần một bộ hàm to và gần như không phải làm gì hết vì chúng đã có con cái.
Regan cho rằng con đực thực chất chỉ là một phần phụ của con cái, chúng phụ thuộc hoàn toàn vào con cái về dinh dưỡng, một dạng kí sinh thực sự.Và cũng chính những đặc điểm trên dẫn đếntập tính giao phối kì quáicủa loài này.
Khi những con đực tìm kiếm bạn tình vào mùa giao phối, chúng sẽ dựa vào một loạipheromonedo con cái tiết ra để tìm kiếm con cái.Khi đã tìm thấy con cái, con đực sẽ cắn vào bụng con cái. Chúng sẽ tiết ra một loại chất hoá học làm cho vùng này của con cái phân huỷ ra, sau đó con đực sẽ bám vào chúng, hoà làm một theo đúng nghĩa đen.
Phần da của cả hai sẽ liên kết với nhau và tạo thành một thể, thậm chí những phần mạch máu của con đực và con cái cũng sẽ liên kết với nhau, cả hai tạo thành một dạng sống thống nhất, hoà làm một
Vì phụ thuộc hoàn toàn vào con cái, ác cơ quan của con đực cũng dần bị teo lại, khô héo và thoái hoá dần. Một thời gian sau, cơ thể con đực không còn gì ngoài việc trông như một cục thịt mọc lên từ phần da bụng của con cái.Thực chất thì cục thịt này chính là một “bọc chứa tinh trùng” cung cấp cho con cái bất cứ khi nào con cái cần để thụ tinh.