Phục vụ dưới 3 triều vua, trải qua 6 bộ, quyền cao chức trọng trên 40 năm nhưng Bùi Khắc Nhất luôn khắc sâu lời dạy "người làm quan có giữ được thanh bạch thì mới để phúc cho con cháu đời sau mãi mãi".
Đặc biệt khi ở Hình bộ, trông coi việc hình án, ông thu phục nhân tâm bởi tấm lòng trinh bạch ngay thẳng, nổi tiếng với câu nói: "Ngục vô oan gia, thiên hạ xưng bình".
Vũ chính kỳ mục
Bùi Khắc Nhất (1533 - 1609) quê Bột Thái, huyện Hoằng Hóa (nay là xã Hoằng Lộc, Hoằng Hóa – Thanh Hóa) trong gia đình nho học, có cha là Bùi Doãn Hiệp - Giám sinh Quốc Tử Giám. Những thập niên đầu thế kỷ 16, triều chính nhà Lê khủng hoảng, suy vong và sụp đổ. Cụ Bùi Doãn Hiệp không tiếp tục theo cử nghiệp mà chọn nghề dạy học.
Theo gia phả họ Bùi, cụ Hiệp dạy học ở nhà ông Mai Thầm tại thôn Đông Lý, xã Hương Cần, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu (Nghệ An). Vợ chồng ông Mai Thầm giàu có và là những người hiền hạnh.
Sau khi cụ Giám sinh Bùi Doãn Hiệp qua đời, vợ chồng ông Mai Thầm coi Bùi Khắc Nhất như con, nuôi dưỡng, dạy bảo và chia cả cho ruộng đất, trâu cày, tiền của để trả nghĩa thầy. Nhờ vậy, ông Bùi Khắc Nhất có điều kiện học hành.
Năm Đinh Tỵ (1557), triều đình mở khoa thi Hương, Bùi Khắc Nhất (25 tuổi) cùng em là Bùi Khắc Hưởng (15 tuổi) dự thi. Cả hai đều trúng Tam trường (Sinh đồ). Năm Giáp Tý (1564), sau khi đậu Hiệu sinh ở phủ (phủ Hà Trung) Bùi Khắc Nhất thi đỗ Hương cống.
Năm sau triều đình đặt chế khoa chọn nhân tài, Bùi Khắc Nhất dự thi. Khoa này có hơn 400 sĩ tử tham dự. Ngày 8 tháng Tư thi Hội, ông trúng cách 41 người. Vào thi Đình vua ra đề "Nhiệm hiền sử năng" (Dùng người hiền, sai khiến người tài giỏi) và đề thi "Thiên hạ nhân tâm luận" (Bàn về lòng người trong thiên hạ); duyệt người đỗ và xếp thứ hạng cao thấp.
Bùi Khắc Nhất đỗ Bảng nhãn (Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân đệ nhị danh) tên tuổi hiện còn lưu tại "Văn bia đề danh chế khoa Ất Sửu niên hiệu Chính trị thứ 8" ở Văn miếu Quốc Tử Giám với lời ngợi khen: "Những người đỗ trong khoa ấy đều là người lỗi lạc kỳ tài".
Sau khi thi đỗ, Bùi Khắc Nhất được vua ban cho ngựa về vinh quy, sau đó trở về triều (hành cung Yên Trường) nhậm chức Cẩn sự tá lang, Hàn lâm viện Hiệu lý, chuyên thảo các bài chiếu của vua. Cuộc đời làm quan của Bùi Khắc Nhất trải qua nhiều chức vụ, từ Hàn lâm viện đến Thị giảng trong cung, giữ chức từ Hình bộ Hữu thị lang đến Công bộ Hữu thị lang, rồi Hộ bộ Thượng thư, Binh bộ thượng thư.
Là một nhà khoa bảng đỗ đạt cao, nổi tiếng hay chữ nên Bùi Khắc Nhất cũng nhiều lần được chọn lựa vào các chức vụ tuyển chọn người tài. Năm Ất Hợi (1575), ông vâng mệnh làm Giám thí trường thi Nghệ An cùng với Đề điệu là Thái phó Lại Thế Khanh, phụng thi sĩ tử. Khoa thi Hội năm Canh Thìn (1580), Bùi Khắc Nhất giữ việc lựa chọn văn chương lấy đỗ 6 Tiến sĩ.
Năm 1593, vua Lê cùng triều thần từ hành cung Yên Trường về đến Thăng Long, Bùi Khắc Nhất cùng với Phùng Khắc Khoan lên cửa quan để báo tin với nhà Minh về việc vua Lê là đại diện chính thống thay vì nhà Mạc. Ông giữ chức "Vũ chính kỳ mục", Phùng Khắc Khoan giữ chức "Văn chính kỳ mục".
Do có nhiều công lớn, sau khi mất ông vẫn được các triều đại sau phong tặng: Năm 1610 được phong Thái bảo tước Văn Phú hầu; năm 1629 được phong Phú Quận công; năm Cảnh Hưng 43 (1782) được phong Thượng đẳng phúc thần Tuy dụ Hùng lược đại vương; năm đầu niên hiệu Gia Long triều Nguyễn (1802) ông được xếp bậc nhì công thần trung hưng.
Làm quan để phúc cho con
Bùi Khắc Nhất là nhà khoa bảng, là công thần trung hưng thời Lê. Tuy nhiên, các tư liệu về ông, sử sách ghi chép lại khá mờ nhạt. Trong các bộ chính sử như: Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục hay một số tác phẩm của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú… đều vắng bóng tên tuổi ông.
Thân thế và sự nghiệp của nhà khoa bảng Bùi Khắc Nhất được trình bày kỹ trong "Gia phả họ Bùi". Đây là tập gia phả chép bằng chữ Hán chân phương trên giấy dó mỏng khổ 14cm x 22cm gồm 212 trang - một tài liệu quý hiếm bởi nội dung ghi chép rất kỹ về hành trạng của Bùi Khắc Nhất. Đồng thời phản ánh nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của thế kỷ 16 cùng các nhân vật lịch sử có liên quan mà sử sách bỏ sót, hoặc có nói tới nhưng chưa đầy đủ.
Tư liệu gia phả cho thấy, cuộc đời Bùi Khắc Nhất gắn với một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Khi ông bước vào quan lộ, phục vụ triều Lê trung hưng cũng là thời điểm cuộc nội chiến diễn ra. Ông lần lượt đảm nhận những cương vị trọng yếu trên mọi mặt triều đình, đóng góp công sức vào thắng lợi của nhà Lê, phục hưng đất nước.
Năm 1592, sự nghiệp trung hưng của nhà Lê cơ bản hoàn thành khi vua Lê lấy lại được Thăng Long. Với những đóng góp đặc biệt to lớn, năm 1596 trên cương vị "Vũ chính kỳ mục" Bùi Khắc Nhất cùng "Văn chính kỳ mục" Phùng Khắc Khoan được triều đình cử đi sứ đàm luận với nhà Minh. Đây là đoàn sứ thần đầu tiên của nhà Lê sau khi hoàn thành công cuộc trung hưng, tái thiết lập quan hệ bang giao với Trung Hoa sau hơn nửa thế kỷ gián đoạn.
Cuộc đời làm quan của Bùi Khắc Nhất trải qua ba triều vua Lê Anh Tông, Lê Thế Tông, Lê Kính Tông; kinh qua sáu bộ. Giữ những chức quan cao cấp trong triều đình, Thượng thư Bùi Khắc Nhất được biết đến là người trực tiếp phụ trách tu sửa Hoàng thành Thăng Long (1593); thường xuyên tham gia cùng triều đình bàn định sách lược, biện pháp phục hồi, phát triển kinh tế đất nước; chăm lo công tác đê điều, thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp...
Đặc biệt, khi ở Hình bộ, trông coi việc hình án, ông thu phục nhân tâm bởi tấm lòng ngay thẳng, nổi tiếng với câu nói: "Ngục vô oan gia, thiên hạ xưng bình". Khi có người mang tiền đến hối lộ, ông không nhận, vẫn thường tự răn mình: "Kẻ phạm lầm lỗi mà ăn năn hối lỗi thì xá tội cho họ, kẻ bị tình nghi thì giảm tội cho họ, đó là chức trách chứ không phải ân huệ của người xem việc ngục… Ta chẳng muốn có những vụ kiện tụng để mọi người phải mang tiền của cho ta, làm cho ta mất lòng trung với vua. Tin vào lòng dân và thương xót những người nghèo khổ là điều ta phải theo...".
Gia phả họ Bùi cũng ghi lời răn dạy của ông: "Đời làm quan, vốn để lại cho con cháu lớn nhất là chữ Phúc. Ta làm quan hơn ba mươi năm, chưa đem lại của cải gì cho dân, nay lại lấy của dân mang về cho con cháu mình thì không đang tâm.
Làm người giữ phép nước mà xa hoa, làm điều phi nghĩa để con cháu mình an nhàn, phóng dật, ăn tiêu phè phỡn thì đâu còn chữ Phúc để lại. Người xưa đã dạy, người làm quan có giữ được thanh bạch thì mới để phúc cho con cháu đời sau mãi mãi".
Công thần triều Lê, phúc thần Bột Thái
Ngày 8/11/1609, Thượng thư Bùi Khắc Nhất qua đời khi đang làm việc tại triều, thọ 77 tuổi. Trên danh nghĩa "làm quan Tôn trưởng" được dân làng bầu vào năm 1593 nên ngay sau khi mất, ông đã được làng tôn là phúc thần phối tế ở Bảng Môn đình của làng Bột Thái.
Công lao của Thượng thư Quận công Bùi Khắc Nhất không chỉ được triều đình nhà Lê công nhận. Khi nhà Lê diệt vong, triều Nguyễn lên thay, ông vẫn được đưa vào danh sách "công thần", nhiều lần truy ban sắc phong. Năm 1802, dưới triều vua Gia Long, ông được truy tặng công thần Trung hưng (xếp thứ 4 trong danh sách 15 người), trên cả Phùng Khắc Khoan; được bao phong phúc thần.
Trong từ đường họ Bùi ở xã Hoằng Lộc lưu giữ đôi câu đối biểu dương công lao và sự nghiệp của quan Thượng thư Bùi Khắc Nhất: Tứ thập tứ tải tuyển lao, sự kinh lục bộ/ Thất thập thất niên hưởng thọ, sĩ lịch tam triều (Việc qua sáu bộ bốn mươi tư năm sức hiến/Quan trải ba triều, bảy mươi bảy tuổi trời cho).
Nhân dân hai làng Bột Thái, Bột Thượng xưa suy tôn Thượng thư Bùi Khắc Nhất là "nhị vị Thành hoàng làng", được thờ tự tại đền thờ của dòng họ. Khoảng năm 2000, cụm đền thờ và lăng mộ Thượng thư Bùi Khắc Nhất được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Tại khu di tích này, hàng năm vào ngày mất của ông (8/11 âm lịch), người dân địa phương cùng con cháu họ Bùi lại cùng nhau dâng hương tưởng niệm và tổ chức lễ hội kính ngưỡng vị phúc thần.
Tài năng, đức độ của Thượng thư Bùi Khắc Nhất được khẳng định trong Chiếu phong chức Hộ bộ Thượng thư ngày 10 tháng 5 năm Thuận Đức (1599): "Bùi Khắc Nhất gia thế dòng nho, khoa trường cao lớn, là vốn quý tài ba, đặng làm cho nước văn minh, giúp vận nước trung hưng. Họ Bùi đứng vững, lấy danh vọng, lấy công lao giúp đắp xây nền móng… bậc lão thành giúp vận nước dài lâu yên trị. Là đại thần cáng đáng công việc lớn lao, không mệt mỏi, một đại thần nghĩa khí vững bền, công lao to lớn".