Theo góc nhìn phân tích của kỹ sư Vũ Đình Thanh, chuyên gia kỹ thuật và đại diện NPO ALMAZ (Nga) tại Việt Nam, Hoàng đế Quang Trung không chỉ đại thắng 30 vạn quân Thanh, mà còn chiến thắng các công ty Đông Ấn phương Tây, những thế lực tư bản có quân đội riêng, vũ khí hiện đại và sức mạnh từng chinh phục nửa thế giới.
Cuộc săn “vàng đen” của các công ty Đông Ấn
Theo kỹ sư Vũ Đình Thanh, các Công ty Đông Ấn như Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều có quân đội riêng, quyền tuyên chiến, đúc tiền và tự chiếm thuộc địa. Trong đó, công ty Đông Ấn Anh còn đông gấp đôi quân đội hoàng gia Anh đủ cho thấy mức độ khủng khiếp của các tập đoàn này trong thế kỷ XVIII.
Nhưng điều làm nên sức mạnh thật sự của họ không phải thuốc phiện, nô lệ, lụa, hồ tiêu hay gốm sứ như nhiều người lầm tưởng, mà là diêm tiêu (KNO₃, thành phần bắt buộc của thuốc súng đen: 75% diêm tiêu, 15% than củi, 10% lưu huỳnh. Không có diêm tiêu thì súng pháo cũng thành vô nghĩa. Mà diêm tiêu lại hình thành chủ yếu từ phân dơi, ở khí hậu nóng ẩm, nguồn mà Đông Nam Á, đặc biệt Việt Nam, Lào, Campuchia là nơi trữ lượng lớn nhất thế giới.
Tất nhiên bí quyết của kinh doanh là bí mật. Nhưng từ việc lần theo dấu vết công nghệ sản xuất súng pháo, kỹ sư Vũ Đình Thanh đã chỉ ra bí mật hàng trăm năm mặt hàng chiến lược tối quan trọng, có tầm chiến lược mà các công ty Đông Ấn, thông qua Nguyễn Ánh và các cộng sự đã chiếm được từ Đông Dương này.
Theo đó, từ thế kỷ XV, người Việt đã có câu chuyện về Hồ Nguyên Trừng bị nhà Minh bắt sang Trung Quốc để làm súng thần công. Trước đó, tướng Trần Khát Chân nhà Trần năm 1390 đã dùng súng thần công bắn vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga trên sông. Chi tiết này cho thấy Đại Việt đã biết làm súng thần công với sức công phá hàng trăm mét, trước phương Tây cả 200 năm. Đại Việt chế ra súng hỏa mai nổi tiếng nhất thế giới, có tên gọi “súng Giao Chỉ" từ những năm 1479 trong khi phương Tây sử dụng súng đại trà 100 năm sau đó.
Theo kỹ sư Vũ Đình Thanh, bước tiến vượt trội của Việt Nam về công nghệ súng đạn trong quá khứ có thể liên quan đến việc sở hữu một nguồn nguyên liệu đặc biệt, đó là phân dơi, thành phần tự nhiên tạo nên diêm tiêu, vốn không thể thay thế của thuốc súng đen cho đến tận cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Trong thời kỳ này, nhiều quốc gia phương Tây vẫn phụ thuộc vào nguồn diêm tiêu nhập từ Đông Nam Á. Sau đó các công ty Đông Ấn Châu Âu phát hiện trữ lượng phân dơi ở phía đông Ấn Độ (các công ty châu Âu có tên Đông Ấn vì lý do này. Nhưng công ty Đông Ấn Anh nhanh và mạnh hơn, độc chiếm Ấn Độ, tức chiếm được khoảng 70% nguồn cung diêm tiêu phục vụ nhu cầu quân sự châu Âu. Phần còn lại, đặc biệt các nước như Pháp, vẫn phải dựa vào nguồn diêm tiêu từ Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu Chiến lược Pháp, cuối thế kỷ XVII đầu XVIII, giá phân dơi cực kỳ đắt đỏ, ước tính gần bằng 0,4 kg vàng cho mỗi kilogram (giá trong thời bình, thời chiến còn cao hơn). Trong cuốn sách của Dupouy xuất bản năm 1913 về khai thác vàng, bạc và các khoáng sản kinh tế ở Việt Nam, tác giả đã hé lộ một thông tin quan trọng, đó là vào năm 1903, tại vùng An Nam (miền Bắc Việt Nam ngày nay) có tới 22 mỏ nitre, tức kali nitrat (diêm tiêu) đang hoạt động tại năm tỉnh quanh Hà Nội.
Kỹ sư Vũ Đình Thanh cho rằng, thông tin này rất quý giá, cho thấy thực dân Pháp, sau khi đặt ách cai trị ở Việt Nam, có thể đã tập trung khai thác mạnh nguồn phân dơi dùng để sản xuất diêm tiêu, được ví như “vàng đen”, thành phần thiết yếu của thuốc súng đen kéo dài đến tận cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Nhiều nghiên cứu thế giới cũng chỉ ra, phân dơi (diêm tiêu) chính là nguyên liệu chiến lược không thể thay thế để các nước phương Tây từ đêm trường Trung cổ trở thành những siêu cường. Diêm tiêu thậm chí còn quan trọng hơn nhiều so với dầu mỏ, uranium, đất hiếm ngày nay.
Từ “vàng đen” tới vũ khí vượt trội của “nhà khoa học” Quang Trung
Từ điểm xuất phát này, ông mở rộng nghiên cứu về sự phát triển hỏa khí tại Việt Nam và đưa ra giả thuyết rằng, nguồn diêm tiêu dồi dào có thể đã góp phần tạo nên lợi thế kỹ thuật cho quân Tây Sơn.
Theo phân tích của ông, việc Tây Sơn đánh bại lực lượng được cho là có liên hệ với các công ty Đông Ấn vào các năm 1782, 1783, rồi chiến thắng quân Xiêm năm 1785 và đặc biệt là đại phá quân Thanh năm 1789 với mô tả trong sử liệu về thứ “lửa như rồng phun” có thể phản ánh mức độ vượt trội của hỏa lực thời Quang Trung.
Sau 6 năm khảo cứu tư liệu và công nghệ hỏa khí, kỹ sư Vũ Đình Thanh đưa ra nhận định, những chiến thắng lớn của Hoàng đế Quang Trung có thể gắn với ưu thế đáng kể về vũ khí so với trình độ kỹ thuật của phương Tây trong khu vực lúc bấy giờ.
Dưới sự thẩm định của nhiều đồng nghiệp là các chuyên gia vũ khí hàng đầu thế giới trong tập đoàn công nghiệp hàng không – vũ trụ, kỹ sư Vũ Đình Thanh đã thử nghiệm việc ứng dụng loại hỏa dược của vua Quang Trung vào động cơ đốt trong và động cơ tên lửa hiện đại. Ông cũng đã tiến hành đăng ký độc quyền sáng chế đối với loại hỏa dược được cho là xuất phát từ công nghệ Tây Sơn.
Theo phân tích của kỹ sư Vũ Đình Thanh, mô tả trong sử nhà Thanh về “hỏa cầu” của quân Tây Sơn với đặc trưng “nhanh như sấm chớp” và “nóng như thò tay vào vạc dầu” rất giống dấu hiệu cháy nổ của phốt pho, vốn bốc cháy ngay khi gặp không khí và gây bỏng sâu tương tự dầu sôi. Hiện vật hỏa cầu Tây Sơn hiện trưng bày tại Bảo tàng Tây Sơn, với lớp vỏ dày, cũng phù hợp với cấu tạo của loại vũ khí chứa phốt pho.
Ngoài ra, mô tả trong sử triều Nguyễn về “hỏa hổ”, loại ống phóng “tống nhựa thông ra, trúng phải đâu lập tức bốc cháy” có thể chứa thành phần phốt pho, do đặc tính cháy lan và khả năng tự bốc cháy khi tiếp xúc không khí. Cùng với đó, hình ảnh dân gian “hai chiến sĩ Tây Sơn khiêng một cái võng” có thể là mô tả việc vận chuyển phốt pho trong nước để tránh. tự cháy trong quá trình hành quân.
Quan điểm quân Tây Sơn sử dụng vũ khí phốt pho đã được Thượng tướng, Viện sĩ, Tiến sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đồng tình. Dựa trên kinh nghiệm từng trực tiếp tiếp xúc với phốt pho trong kháng chiến chống Mỹ, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu cho rằng, các dấu hiệu, mô tả và lập luận liên quan “phù hợp với đặc tính của phốt pho”, và nhận định việc quân Tây Sơn sử dụng loại hỏa dược này là “có cơ sở”.
Theo kỹ sư Vũ Đình Thanh, dù thực dân Pháp và phương Tây cuối thế kỷ XVIII đã có những bước tiến lớn về kỹ thuật quân sự, hỏa lực của quân Đại Việt dưới triều Tây Sơn vẫn có thể đã vượt trội nhờ công nghệ chế tạo “hỏa dược phốt pho”, loại vũ khí được đánh giá chỉ đứng sau bom nguyên tử sau này.
Bằng chứng là những đụng độ của quân Tây Sơn với liên quân các công ty Đông Ấn năm 1782 và 1783 mà theo chính sử nhà Nguyễn đã ghi, dù có quân số từ 3 đến 5 vạn và trang bị mạnh như súng, pháo, lựu đạn, tàu đồng, vẫn bị quân Tây Sơn đánh tan, tướng tiên phong Manual Mạn Hòe bị thiêu cháy.
Tuy nhiên, do nền công nghiệp quốc phòng của Đại Việt lúc đó chưa giải quyết được vấn đề an toàn khi gia công phốt pho, đã dẫn tới việc hoàng đế Quang Trung, các tướng lĩnh chủ chốt cùng rất nhiều kỹ sư, công nhân Đại Việt triều đại Tây Sơn bị chết trong khi gia công phốt pho. Theo giả thuyết này, điều đó đã dẫn đến việc cung cấp vũ khí phốt pho bị gián đoạn. Đây chính là nguyên nhân chính góp phần dẫn tới việc liên quân các công ty Đông Ấn thắng được Đại Việt thời Tây Sơn.
Tất cả những phân tích, phát hiện, quan điểm của kỹ sư Vũ Đình Thanh mới chỉ là giả thuyết, cần tiếp tục khảo cứu, đối chiếu và xác minh bằng các phương pháp liên ngành. Tuy nhiên, đã gợi mở một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam.
Nếu các giả thuyết về công nghệ hỏa dược và những ưu thế vật liệu thời Quang Trung tiếp tục được chứng minh bằng thực nghiệm và bằng chứng khách quan, chúng có thể bổ sung thêm một lát cắt quan trọng vào bức tranh lịch sử dân tộc. Từ đó cho thấy, hoàng đế Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài, mà còn là người có tư duy khoa học, dám tìm tòi các giải pháp kỹ thuật để tạo lợi thế chiến lược trong bối cảnh đầy biến động của thế kỷ XVIII. Cùng với đó, cho thấy năng lực sáng tạo khoa học – kỹ thuật của người Việt trong thế kỷ XVIII, đặc biệt là khả năng khai thác tài nguyên, chế tạo hỏa khí và phát triển các dạng công nghệ vượt trước thời đại.