Lời đồn đoán về hầm mộ bí ẩn
Đó là câu chuyện về khu hầm mộ có những cửa hầm được phát hiện ngay tại chân dãy núi Trà Trâu, thuộc thôn Thong 1 và thôn Chè núi, xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Cửa hầm hiện tại có thể quan sát rõ nhất là ở ngay sau nhà ông Lê Đình Bảng (SN 1964), thôn Thong 1, xã Thanh Tâm.
Ông Lê Đình Bảng cho biết, vào năm 1987 ông mua lại khu đất này với giá 160 nghìn đồng. Đến năm 1994, do nhu cầu mua đất sang lấp nền của người dân tăng cao, thấy khu đất nhà mình cũng chưa được bằng phẳng, vuông vắn nên ông quyết định mua công nông đầu dọc và thuê người đến đào đất theo hướng từ ngoài vào chân núi. Phần đất được đào ra được ông chở đi bán.
|
Dãy núi Trà Trâu, nơi phát hiện ra khu hầm mộ cổ. |
Tuy nhiên, khi đào được khoảng 4m đất thì lộ ra cửa hầm với một lỗ nhỏ chỉ đủ thò được cả cánh tay vào, nhiều người thử sử dụng que dài khoảng 10m để đưa vào trong nhưng vẫn chưa chạm tới đáy của hầm cổ này. Phần cửa hầm là những viên gạch được xếp rất khéo léo vừa khít với nhau mà không hề có vật liệu kết dính. Mỗi viên gạch có độ dày chỉ từ 3-5cm, màu đỏ tươi, được bày trí theo hình cánh cung, trên gạch có những hoa văn hình lưỡi búa.
“Tôi chỉ nghĩ đơn giản chắc là hầm mộ cổ còn những người tôi thuê đến đào đất họ vẫn cứ nghĩ đây là hầm thần của, trên trong có chứa đầy vàng. Nhiều người nghe tin còn đưa máy dò kim loại đến và dò khắp khu đất nhà tôi, dò đến đâu máy đều phát ra tiếng kêu đến đó.
Chắc từ đó nên những lời đồn đoán cho rằng hầm mộ ấy có chứa đầy vàng bắt đầu được lan truyền ngày một nhanh hơn, làm nhà tôi hầu như ngày nào cũng có khách lạ đến hỏi thăm.
Nhiều người bàn với tôi cho họ đào sâu vào hầm cổ để tìm kiếm kho báu với tỷ lệ ăn chia rất hấp dẫn như 50:50 hoặc 60:40. Tuy nhiên tôi không đồng ý, phần là vì nếu đào thì không biết sẽ phải đổ đất đi đâu. Và nếu không có vàng, châu báu thì lại phạm vào tâm linh. Gia đình tôi sống ở đây rất yên bình nên tôi cũng chỉ nghĩ đây là hầm mộ cổ cho đơn giản.
Phần hầm mộ nằm trong sổ đỏ nhà tôi nên tôi sẽ cố gắng bảo vệ, vì thế nên dù có những lời mời tỷ lệ ăn chia nghe chừng rất hấp dẫn nhưng tôi vẫn sẽ từ chối”– ông Bảng cho biết.
|
Ông Bảng chỉ phần lỗ hở tại miệng hầm. |
Những người dân tại thôn Thong 1 khi được hỏi về hầm cổ, đều ít nhiều tin rằng trong hầm cổ ấy có chôn giấu vàng và kho báu của phú hào thời xưa hoặc của người Trung Quốc thời cổ.
Cũng theo ông Lê Đình Bảng, tuy đã có rất nhiều đoàn khoa học đến nhà ông để thăm dò hầm cổ, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có sự thống nhất nào về nguồn gốc cũng như thời gian chính xác về thời gian ra đời của hầm cổ này ở vùng núi Trà Trâu.
Những giai thoại kỳ bí
Ông Lê Đình Bảng cũng cho biết, từ khi phát hiện ra hầm mộ phía sau nhà, những câu chuyện bí ẩn liên quan đến hầm cổ này ông được nghe nhiều hơn. Không chỉ một mà rất nhiều chuyện khác nhau, ông Bảng cũng không dám khẳng định là có thật hay chỉ là thêu dệt.
Theo ông Bảng, câu chuyện ông được nghe nhiều nhất là về câu chuyện đàn lợn vàng xuất hiện trên vùng núi Trà Trâu, ngay sau nhà ông. Theo lời các cụ khoảng 70 tuổi trong thôn Thong 1, khi còn là thiếu niên, vào buổi trưa họ thường cùng nhau đùa bên khu đất rộng của làng thì nhìn thấy có ánh sáng rực lên như một mâm vàng ở trên vùng Trà Trâu Núi. Nhiều người tò mò chạy về hướng núi có ánh sáng phát ra thì khi chạy đến nơi ánh sáng trên bỗng dưng vụt tắt.
Cứ vào mỗi đêm trăng rằm thì trên núi Trà Trâu lại xuất hiện một đàn lợn vàng khoảng hơn chục con nối đuôi nhau đùa giỡn. Trong số ấy, con cuối đàn bị què nên chậm chạp, lặng lẽ theo sau. Có người nhiều lần nhìn thấy liền đuổi theo để bắt nhưng đàn lợn đều chạy đến chân đồi rồi mất hút.
Điều kỳ lạ là khu vực đàn lợn thường xuyên xuất hiện chính là khu vực hầm cổ của nhà ông Bảng. Có nhiều người cũng đã đến hỏi thăm dùng bẫy bắt đàn lợn này nhưng không thành.
|
Phần gạch được xếp khéo léo mà không hề có chất liệu kết dính. |
Tiếp đến là giai thoại về cặp rắn hổ mang canh giữ cửa hầm, to như thân cây, đầu có mào dữ tợn nằm vo tròn canh hai bên cổng hầm. Câu chuyện này do hai cụ cao niên trong làng là cụ Đỗ Văn Đặt (đã mất) và cụ Bùi Ngọc Sổ nhìn thấy khi đến khu vực hầm cổ kể lại. Nhưng vì sợ hãi nên hai cụ đã chạy một mạch về nhà, không dám kể lại cho ai biết. Mãi sau này, sợ con cháu gặp bất trắc khi đến khu vực trên nên hai cụ mới kể lại câu chuyện để cảnh báo.
Không những vậy, trước đó còn có một người ở thôn Chè Núi, tên là Sảnh khi dắt trâu đến cột trước miệng hầm để trâu ăn cỏ thì ngay lập tức con trâu to khoẻ bỗng dưng lăn đùng ra chết như bị trúng độc của rắn. Khi nghĩ lại, ông Sảnh cho rằng, vì ông cột trâu ở miệng hầm xâm phạm đến hầm nên đôi rắn canh giữ đã lao ra cắn chết trâu.
Ngoài những câu chuyện trên thì ông Bảng cũng cho biết rằng, chính người chủ cũ của khu đất này (đã di cư vào sinh sống tại tỉnh Lâm Đồng) cũng kể lại nhiều câu chuyện kỳ lạ khiến họ sợ hãi.
“Họ nói vào ban đêm khi đang ngủ thường hay có cảm giác bị ai đó trêu và giữa đêm đang ngủ thì nghe thấy có tiếng ai đó ném đá vào nhà mình nhưng khi ra ngoài lại không thấy ai.
Giấc mơ khiến người chủ cũ kinh hãi nhất đó là giấc mơ liên tục lặp lại về một người phụ nữ bỏ một đứa bé vào trong chiếc nón, cứ thế kéo lê đứa nhỏ vào nhà để xin ăn. Năm 1986, tôi mới xuất ngũ bộ đội về, bản tính gan dạ nên dù nghe câu chuyện này nhưng tôi không thấy sợ nên đã quyết định mua lại mảnh đất này.
Từ khi sinh sống ở đây tôi thì lại không mơ thấy hay thấy chuyện gì kỳ lạ. Gia đình tôi cũng không gặp bất trắc gì nên về chuyện hầm cổ tôi cũng coi như là một phần của gia đình tôi. Tôi cũng không có ý định đào xới lên để tìm kho báu” – ông Bảng khẳng định.
Thực hư về hầm mộ đồn đoán
Ông Lê Đình Bảng cho biết, vào ngày 12/4/2009, PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung, Giám đốc Bảo tàng Nhân học, Đại học KHXH&NV cùng đoàn đã đến thăm "Hầm cổ” phía sau nhà ông và đã khẳng định rằng, đây là mộ hán cổ, có kết cấu mộ gạch cuốn vòm, xếp bằng gạch múi bưởi, hoa văn ô trám, quy mô vào loại trung bình trong phức hợp mộ gạch cuốn vòm, có niên đại khoảng 2000 năm.
Lối kiến trúc của những ngôi mộ cổ này thường bắt chước kiến trúc của người sống, tức là trong mộ có gian giữa, gian trước, gian sau nên hẹp về bề ngang nhưng ăn sâu vào lòng núi.
Sau khi khảo sát, họ phát hiện tại khu đồi trọc hình vòng cung dài chừng 100m này còn phát hiện thêm khoảng 13 ngôi mộ như thế. Đối chiếu với các tài liệu khảo cổ cho thấy đây là những ngôi mộ Hán cổ, có niên đại từ khoảng thế kỷ thứ I - III (sau công nguyên), tức là giai đoạn 1.000 năm Bắc thuộc.
Những ngôi mộ hán cổ, xây bằng gạch này thường có nhiều gian, được đắp nấm nổi cao như những gò lớn. Bên trong thường chôn theo người chết các đồ tùy táng bằng gốm, sành, sứ, kim loại...
Loại mộ này có cấu trúc khác với mộ truyền thống của người Việt cổ thời Đông Sơn là mộ đất, mộ quan tài hình thuyền, mộ vò...
Người nằm trong những ngôi mộ này thường thuộc tầng lớp cai trị người Hán và do vậy mộ gạch thường phân bố ở những khu vực lị sở của chính quyền phong kiến phương Bắc và có một quy luật phổ biến là những trung tâm chính trị-hành chính thời Bắc thuộc.
Niên đại của những mộ gạch được xác định dựa trên quy mô, cấu trúc của mộ, kích cỡ, màu sắc và trang trí của gạch xây mộ cũng như loại hình và chất liệu của đồ chôn theo. Mộ gạch thường được phân thành các giai đoạn Hán, Lục Triều và Tùy Đường. Sau thời Đường truyền thống mộ gạch này cũng biến mất.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những ngôi mộ cổ tương tự như ngôi mộ cổ sau nhà ông Bảng tại các nước khác như Hàn Quốc, Trung Quốc. Riêng tại Việt Nam những ngôi mộ thế này xuất hiện nhiều như Hà Nam, Hà Nội, Hưng Yên....
Trong một tài liệu khảo cổ khác cho thấy, hầm cổ tại thôn Thong chỉ là hầm mộ cổ chứ không phải là “hầm thần của” – nơi cất giấu nhiều vàng, châu báu. Vì “hầm thần của” thường được xây dựng bằng loại gạch đỏ tươi rất đẹp mắt. Trên mỗi viên gạch có các hình hoa văn chữ A và không sử dụng hoạ tiết hình búa hay ô vuông trám.