Tại sao chim khủng bố - Phorusrhacids lại đáng sợ nhất thời tiền sử?

Trong phần lớn thời kỳ Đại Trung sinh, chim khủng bố thống trị Nam Mỹ và săn mồi bằng mỏ giống chim ưng - cho đến khi chúng tuyệt chủng khoảng 2 triệu năm trước.

Thế giới cổ đại đầy rẫy những con quái vật đáng sợ. Nhưng trong khi hầu hết mọi người đều biết một hoặc hai điều về loài khủng long, kẻ thống trị vương quốc động vật cho đến khi chúng tuyệt chủng khoảng 65 triệu năm trước, thì ít người biết về những kẻ săn mồi đã thay thế chúng: loài chim khủng bố.

Với tên gọi chính thức là Phorusrhacids, chúng là loài chim khủng bố nổi tiếng cách đây khoảng 60 triệu năm ở Nam Mỹ. Mặc dù nhiều loài khác nhau đã được phát hiện, những loài lớn nhất từng được phát hiện có thể cao hơn 10 feet (3 mét) và nặng hơn 1.000 pound (454 kg). Chúng là một loài động vật săn mồi nhanh nhẹn và có chiếc mỏ sắc nhọn, theo thời gian, loài chim ăn thịt này đã nhanh chóng trở thành kẻ săn đứng đầu chuỗi thức ăn vào thời đại của chúng.

Tuy nhiên, giống như khủng long, triều đại của loài chim khủng bố cuối cùng đã kết thúc.

Tai sao chim khung bo - Phorusrhacids lai dang so nhat thoi tien su?

Khám phá về Phorusrhacids

Theo một bài báo đăng trên Tạp chí Cổ sinh vật học của Đại học Cambridge, loài chim khủng bố lần đầu tiên được mô tả bởi một nhà cổ sinh vật học người Argentina tên là Florentino Ameghino vào năm 1887. Ông và anh trai của mình đã tìm thấy một số hóa thạch "không hoàn chỉnh" trong Hệ tầng Santa Cruz ở Patagonia.

Darwin's Door báo cáo rằng Ameghino đã đặt tên cho khám phá của mình là Phorusrhacos longissimus, và tin rằng chúng là một loài chim ăn thịt gần giống đại bàng hoặc diều hâu. Tuy nhiên, những khám phá sâu hơn cho thấy loài chim khủng bố có quan hệ họ hàng gần hơn với seriema, một loài chim Nam Mỹ.

Tai sao chim khung bo - Phorusrhacids lai dang so nhat thoi tien su?-Hinh-2

Kể từ đó, khoảng 20 loài chim khủng bố khác nhau đã được phát hiện. Một số, như Llallawavis scagliai, được phát hiện vào năm 2010, tương đối nhỏ và chỉ cao 4 feet (1,2 mét). Nhưng những loài khác, như Kelenken guillermoi, được phát hiện vào năm 2004, gây kinh hoàng hơn nhiều. Kelenken có chiều cao đáng kinh ngạc - 10 feet và có thể nặng hơn 1.000 pound.

Theo nhà cổ sinh vật học Luis Chiappe, người đã mô tả Kelenken vào năm 2007, hộp sọ khổng lồ của nó là “hộp sọ lớn nhất được biết đến dành cho các loài chim khủng bố”. ông chia sẻ, "Trên thực tế, đó là hộp sọ chim lớn nhất được biết đến trong thời kỳ này".

Thời đại của những con chim khủng bố

Khoảng 60 triệu đến hai triệu năm trước, loài chim khủng bố đã từng thống trị Nam Mỹ, chúng sử dụng kích thước, tốc độ và chiếc mỏ mạnh mẽ của mình để thống trị toàn bộ lục địa này.

Theo National Audubon Society, những con chim khủng bố không thể bay, nhưng chúng có thể đạt tốc độ lên tới 60 dặm (gần 100 km) một giờ trên mặt đất. 

Một số nhà khoa học đã gợi ý rằng những con chim khủng bố có thể là những loài động vật ăn chay chứ không phải là động vật ăn thịt. Theo Wired, các nhà khoa học Đức đã nghiên cứu thành phần đồng vị canxi trong xương của chim khủng bố và nhận thấy chúng giống với động vật ăn cỏ hơn là động vật ăn thịt.

Tai sao chim khung bo - Phorusrhacids lai dang so nhat thoi tien su?-Hinh-3

Tuy nhiên, Chiappe nói với Wired rằng anh tin rằng những con chim khủng bố là những kẻ săn mồi. “Có thể lực cắn của những con chim khủng bố không đủ mạnh, tuy nhiên điều này có ý nghĩa rằng có thể chúng chỉ giới hạn trong việc săn mồi một số loài động vật nhất định, nhưng theo tôi, điều đó không khiến chúng trở thành một loài chim không săn mồi”.

Các nhà khoa học có thể không biết chính xác những gì những con chim khủng bố đã ăn. Nhưng họ biết rõ hơn về âm thanh của những con thú khổng lồ thời tiền sử này. Các nhà nghiên cứu đã có thể tái tạo lại tai trong của loài chim sau khi phát hiện ra một hóa thạch của loài Llallawavis scagliali được bảo quản tốt vào năm 2010.

Federico Degrange, đồng tác giả của nghiên cứu về Llallawavis scagliali giải thích rằng ông và các nhà nghiên cứu khác đã so sánh ống tai trong của chim khủng bố với các loài chim còn sống ỏ thời điểm hiện tại. Họ phát hiện ra rằng tiếng kêu của những con chim khủng bố có thể nghe giống như tiếng kêu của loài emu hoặc chim đà điểu. Hiệp hội Audubon mô tả tiếng kêu của chúng là “tiếng gầm nhẹ”.

Degrange cho biết: “Chúng tôi có thể nói rằng những con chim khủng bố có độ nhạy tần số thấp - vì vậy có vẻ hợp lý khi cho rằng chúng cũng tạo ra âm thanh tần số thấp".

Điều gì đã xảy ra với những con chim khủng bố?

Theo như các nhà cổ sinh vật học ngày nay biết, loài chim khủng bố bắt đầu biến mất cách đây khoảng hai triệu năm. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng sự suy tàn của chúng, và cuối cùng là sự tuyệt chủng, diễn ra đồng thời với sự hình thành của eo đất Panama, nơi kết nối Bắc và Nam Mỹ.

Có bằng chứng rõ ràng cho thấy những con chim khủng bố đã di cư lên phía bắc, vì hóa thạch của chúng đã được phát hiện ở Texas và Florida. Nhưng sau đó, một số người nghi ngờ, những con chim khủng bố đã gặp những kẻ săn mồi khác như báo đốm và các loài mèo răng kiếm rồi sau đó cạnh tranh sinh tồn với nhau.

“Vì vậy, chúng phải đối mặt với sự cạnh tranh mới cho cùng một nguồn tài nguyên,” Chiappe giải thích. "Và kết hợp với những thay đổi của khí hậu, chúng có thể đã không đủ khả năng cạnh tranh với các loài động vật săn mồi đến từ Bắc Mỹ và dẫn đến tuyệt chủng".

Tai sao chim khung bo - Phorusrhacids lai dang so nhat thoi tien su?-Hinh-4

Nhưng không phải ai cũng nghĩ rằng sự tuyệt chủng của loài chim khủng bố chỉ đơn giản như vậy. Degrange tin rằng việc phát hiện ra Llallawavis scagliali có nhiều điều phức tạp vì anh cho rằng loài chim này đa dạng hơn những gì các nhà nghiên cứu đã biết trước đây.

“Ý tưởng trước đây là chúng đã thua trong cuộc cạnh tranh với động vật có vú đến từ Bắc Mỹ. Nhưng điều đó chủ yếu dựa trên sự đa dạng thấp của các loài chim khủng bố được biết đến vào thời điểm đó. Nhưng với việc phát hiện ra loài Llallawavis thì mọi thức lại đang cho thấy điều ngược lại”.

Nói cách khác, anh giải thích, các nhà cổ sinh vật học cần bắt đầu suy nghĩ về những lý do khác khiến loài chim khủng bố tuyệt chủng.

Hiện tại, vẫn còn nhiều bí ẩn về loài chim khủng bố. Nó thực sự là một loài động vật ăn thịt đáng sợ - hay chỉ đơn thuần là một loài động vật ăn cỏ to lớn và thích gầm gừ? Sự hợp nhất của Bắc và Nam Mỹ có làm mất đi sự tồn tại của nó không? Hay các yếu tố phức tạp hơn đang diễn ra, như biến đổi khí hậu?

Khám phá cá chình: Sinh vật bí ẩn

Là loài thủy sản giá trị cao và cực kỳ bổ dưỡng, cá chình hay lươn (eel) đã được nhân loại khai thác làm thực phẩm từ cả ngàn năm nay.

Cá chình (Anguilla) có thân dài giống rắn, thường hoạt động về đêm và ưa sinh sản tại những vùng biển xa, nghèo dinh dưỡng. Những con non (mới nở) có kích thước bằng hạt gạo, sau đó sẽ bắt đầu một hành trình dài – lên đến 6.000 km – tới các khu vực nước ngọt hoặc nước lợ để sinh trưởng trong nhiều năm. Cá chình trưởng thành có thể nặng đến 20 kg, trước khi quay lại biển đẻ trứng rồi chết và chìm xuống đáy sâu1.

PGS-TS La Thế Vinh: Nhà khoa học “mê” sơn chịu nhiệt

Phó giáo sư - tiến sỹ (PGS-TS) La Thế Vinh đã tạo ra một sản phẩm được đánh giá là dẫn đầu các loại sơn ở Việt Nam về khả năng chịu nhiệt độ cao.

PGS-TS La Thế Vinh gắn bó với Đại học (ĐH) Bách khoa Hà Nội từ thời đi học đến nay, khi đã là một nhà khoa học có thành tựu. Ông đang là Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật hóa học thuộc trường này.
Bị ngộ độc vì ham thí nghiệm
Phòng thí nghiệm vật liệu hóa học đầy ắp ánh sáng tràn vào từ rất nhiều ô cửa kính nhưng vẫn mát mắt, tạo cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng do được bao bọc bởi những tán cây xanh rì - vốn là cảnh quan quen thuộc của ĐH Bách khoa Hà Nội. Sắc xanh từ cây cối khiến người ta quên đi mùi hóa chất. Khoác chiếc áo blouse trắng đã cũ sờn, TS La Thế Vinh bước vào với nụ cười hóm hỉnh: “Đừng để ý cái áo của tôi nhé, đây là áo mới nhất rồi, hy vọng lên ảnh mọi người không nhận ra những chỗ sờn”. 
PGS-TS La The Vinh: Nha khoa hoc “me” son chiu nhietPGS-TS La Thế Vinh trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Lê Hằng. 
Chuyện ông kể về thời sinh viên khiến tôi hết ngạc nhiên về chiếc áo, bởi La Thế Vinh ngày ấy và bây giờ là một: Ngoài khoa học, những điều khác ông đều chẳng mấy để tâm.
“Năm đầu đại học, được vào phòng thí nghiệm, tôi hào hứng lắm, thường xuyên về muộn để hoàn thiện thí nghiệm. Có hôm quên ăn trưa, khi nhớ ra tôi vội chạy tới quán cơm ở phố Bạch Mai mà chưa kịp rửa sạch hóa chất bám trên tay. Thế là bị ngộ độc, bài học mà bây giờ tôi vẫn hay kể cho sinh viên để rút kinh nghiệm” - nhà khoa học sinh năm 1973 kể.
Niềm đam mê với sơn chịu nhiệt
Hè 1995, chàng sinh viên năm thứ ba La Thế Vinh được cử đi thực tập tại một nhà máy hóa chất ở Phú Thọ và nhận thấy rất nhiều máy móc, thiết bị han gỉ, hỏng hóc do lớp sơn bị huỷ hoại từ lâu. “Có nhiều hôm tôi chỉ đứng nhìn ống khói nhà máy xả khói đen sì, do cũng đang tìm hiểu về sơn chịu nhiệt nên tôi nảy ra ý nghĩ rằng nếu mình làm được một loại sơn phủ thiết bị, máy móc thật hiệu quả thì tuyệt vời” - TS Vinh nhớ lại.
Tuy nhiên, do học chuyên ngành phân bón, cơ sở vật chất hồi đó lại rất khó khăn, Vinh không có nhiều điều kiện để nghiên cứu về sơn chịu nhiệt. Để có tiền mua bột màu và các hóa chất thí nghiệm, chàng trai chăm chỉ làm gia sư. Vinh kể: “Hễ dành được tiền từ việc đi dạy, tôi lại đạp xe lên phố Nguyễn Khuyến mua bột màu. Ít tiền nên mỗi lần tôi chỉ mua nửa cân đến một cân”.
Việc mày mò nghiên cứu sơn chịu nhiệt vẫn được Vinh tiếp tục sau khi tốt nghiệp cử nhân, thạc sỹ rồi chính thức làm việc ở ĐH Bách khoa. Ông thử nghiệm sản phẩm trên các tấm tôn, sắt phế phẩm và vui mừng nhận thấy ở nhiệt độ cao, sơn vẫn bám chắc, bề mặt nhẵn bóng. Để khẳng định sản phẩm có khả năng chịu nhiệt trên nhiều vật liệu, ông tiếp tục phủ sơn lên dây bếp điện, sau đó cắm điện cho bếp đỏ lên. Kết quả là 6 tháng sau, bếp vẫn dùng tốt, lớp sơn không bị hỏng.
Năm 2001, La Thế Vinh mang sản phẩm trở về nơi thực tập cũ là nhà máy hóa chất ở Phú Thọ để thử nghiệm. Lãnh đạo nhà máy đồng ý dùng sơn này cho một đoạn đường ống có nhiệt độ khoảng 8000C khi hệ thống vận hành, vốn thường xuyên bị hỏng. Một thời gian dài sau đó, Vinh nhận được cuộc gọi từ cậu học trò cũ làm ở nhà máy kia: “Sơn của thầy tốt thật, buổi tối bọn em đi qua đoạn đường ống đó, thấy sắt thép đỏ rực lên ở nhiệt độ cao, thế mà sơn của thầy vẫn không sao”.
PGS-TS Vinh giải thích, khi ở nhiệt độ cao, trong môi trường hơi nước và không khí, kim loại bị ăn mòn rất nhanh. “Máy móc, thiết bị công nghiệp rất đắt nên việc sơn chịu nhiệt khắc phục được vấn đề đó đối với tôi là niềm vui rất lớn” - ông nói và cho biết, sản phẩm này được đánh giá là dẫn đầu về khả năng chịu nhiệt trong các loại sơn ở Việt Nam, đã được xuất khẩu sang Đài Loan.
Người thầy nhiệt tâm
Là người tâm huyết với việc đào tạo, PGS-TS Vinh luôn truyền đạt cho sinh viên những thông tin khoa học, công nghệ mới nhất đã được ông chắt lọc, kiểm định. GS-TS Nguyễn Trọng Uyển - khoa Hóa học, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội - nhận xét: “TS Vinh là người yêu khoa học thật sự, có tinh thần học hỏi các thế hệ đi trước và cũng biết cách giúp đỡ, đào tạo sinh viên”.
Bùi Quốc Huy - một sinh viên cũ của TS Vinh, nay là Phó Trưởng khoa Hóa, ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên - tâm sự: “Từng trải qua thuở hàn vi nên thầy hiểu và cảm thông với sinh viên khi làm nghiên cứu, luôn sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng. Tôi biết có những thời điểm gặp khó nhưng thầy không nản lòng, đã làm việc gì là cố bằng được. Đó là điều tôi phục nhất”.
TS Vinh cũng thừa nhận: “Bất kể giờ nào, khi chưa xong việc thì tôi không rời phòng thí nghiệm. Khi căng thẳng quá, tôi mới tự cho phép mình nghỉ ngơi để thay đổi trạng thái bằng cách chạy bộ hay đi bơi".

Đọc nhiều nhất

Tin mới