Năm 1942, quân Phát xít đã dành được nhiều chiến thắng trước lực lượng Đồng minh ở mặt trận châu Phi và có vẻ như châu Phi cũng sẽ trở thành một khúc khải hoàn khác của quân Phát xít.Nhưng may mắn thay, 1 năm trước tướng Claude Auchinleck đã thành công bảo vệ Ai Cập trước sự tấn công như vũ bão của quân Đức ở 2 trận chiến El Alamein thứ nhất và Alam el Halfa. Và giờ, đã tới lượt quân Đồng Minh phản công.Tới tháng 6/1942, tướng Erwin Rommel tư lệnh quân Đức ở mặt trận châu Phi luôn có lợi thế tình báo, nhờ đặc nhiệm Ý lấy được bản kế hoạch của phe Đồng minh từ một bản báo cáo gửi về Washington của đại tá Bonner Frank Fellers, một tùy viên quân sự Mỹ ở Cairo.Tuy nhiên, máy thu thập tình báo Ultra và các nguồn tin địa phương đã cho quân Anh lợi thế thông tin. Tháng 8/1942, tướng Bernard Montgomery lên làm tổng tư lệnh các lực lượng Đồng minh ở Trung Đông, người sau này tham gia chỉ huy chiến dịch giải phóng Italia cũng như tổng chỉ huy quân Đồng minh trong chiến dịch Overlord.Quân Đồng minh tổ chức ba chiến dịch để thực hiện đẩy lùi quân Phát xít. Chiến dịch Bertram được tổ chức bởi quân đội Anh nhằm đánh lạc hướng quân Đức bằng cách sử dụng các chốt nhiên liệu và tiếp tế giả.Chiến dịch Braganza được quân Đồng minh tổ chức nhằm chiếm khu vực Deir el Munassib nhưng bị đẩy lùi bởi lính nhảy dù Itaia. Chiến dịch Lightfoot được tướng Montgomery thực hiện với ý đồ cắt hai hành lang qua bãi mìn của Đức ở phía Bắc hàng phòng thủ của phe Phát xít.Rommel sau chiến dịch ở Tripoli biết hàng tiếp tế và quân lính của mình không đủ để tiếp tục đánh vào Ai Cập. Ông mong quân Đức ở Stalingrad sẽ thắng và di chuyển xuống Iran, đe dọa mặt trận Trung Đông từ hai phía. Rommel cho sư đoàn hạng nhẹ thứ 90 cùng thiết giáp có vai trò hỗ trợ đánh lùi bất kì nỗ lực tấn công nào của quân Đồng minh.Quân Anh có 195.000 người, 1.029 xe tăng, 435 xe bọc thép, khoảng 730 máy bay, 900 khẩu pháo và 1.451 pháo chống tăng. Trong khi đó, với một lực lượng khiêm tốn hơn, Đức và Ý có tổng cộng 116.000 người, 547 tăng, 192 xe bọc thép, khoảng 800 máy bay, 550 khẩu pháo và khoảng 1.000 pháo chống tăng.Tối 23/10, 1.000 khẩu pháo của Anh đánh oanh tạc hàng phòng thủ Đức. Tới 22 giờ, bộ binh Anh mở đường cho quân Đồng minh. Tuy nhiên, vì các xe quân dụng gây ra quá nhiều bụi khi tấn công nên di chuyển bị đình trệ và chỉ có một nửa lực lượng bộ binh đến được các mục tiêu chiến lược.Tuy nhiên vào sáng hôm sau, Tướng Montgomery nhận thấy không có sự thay đổi nào trong hàng phòng thủ quân địch nên đã ra lệnh hoàn tất mở hành lang phía Bắc và đẩy quân địch qua cầu Miteiriya ở phía Nam. Sáng ngày 24, quân Đức và Italia hoảng loạn trước chiến dịch của quân Đồng Minh và không đưa ra được một phương hướng cụ thể nào.Rommel bị Hitler triệu tập khi đang nghỉ phép và ông bay trở lại châu Phi ngay lập tức để nắm quyền chỉ huy. Tối ngày 25 ông trở về châu Phi và đánh giá tổng quan chiến trường. Các sư đoàn và phía Bắc chịu thiệt hại nặng nề, có đơn vị lên đến 50%.Ông cho một số quân đoàn chiếm lại một số điểm quan trọng nhưng bị đẩy lại dưới làn pháo và chỉ chiếm lại được đồi số 28. Ông triệu tập tất cả thiết giáp rải khắp phòng tuyến và tập trung lại cùng với quân dự bị tổ chức phản công nhưng bị ngăn lại bởi sự thiếu hụt nhiên liệu và máy bay ném bom của Đồng minh.Tới ngày 30, Rommel đã quyết định không cứu vãn được mặt trận nữa và lên kế hoạch rút lui về Fuka. Quân Đồng minh đã dọn xong bãi mìn liền cho quân thiết giáp liên tục tiến công, nhiều quân đoàn của Italia đã bị bao vây và hàng phòng thủ Đức đã bị bào mỏng đi gấp đôi.Tới ngày 4/11, Rommel điện báo với Hitler về kế hoạch rút lui tới Fuka nhưng không đợi được phản hồi nên 17 giờ 30 đã bắt đầu cho rút quân. Trận El Alamein thứ hai là một chiến thắng quyết định cho quân Đồng Minh. Thủ tướng Anh Churchill từng nhận xét “Trước Alamein, ta chưa từng biết chiến thắng. Sau Alamein, ta không còn biết thất bại”.Rommel rút quân đoàn châu Phi của mình về Fuka, tàn tạ và đuối sức. Đến đây coi như kết thúc sự nghiệp binh trường huy hoàng của “Cáo già sa mạc” ở mặt trận Bắc Phi, nơi đã làm nên tên tuổi của ông trong đệ nhị thế chiến. Nguồn ảnh: Warhistory. Những thước phim màu cực hiếm về mặt trận Bắc Phi nảy lửa trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguồn: FootageArchive.
Năm 1942, quân Phát xít đã dành được nhiều chiến thắng trước lực lượng Đồng minh ở mặt trận châu Phi và có vẻ như châu Phi cũng sẽ trở thành một khúc khải hoàn khác của quân Phát xít.
Nhưng may mắn thay, 1 năm trước tướng Claude Auchinleck đã thành công bảo vệ Ai Cập trước sự tấn công như vũ bão của quân Đức ở 2 trận chiến El Alamein thứ nhất và Alam el Halfa. Và giờ, đã tới lượt quân Đồng Minh phản công.
Tới tháng 6/1942, tướng Erwin Rommel tư lệnh quân Đức ở mặt trận châu Phi luôn có lợi thế tình báo, nhờ đặc nhiệm Ý lấy được bản kế hoạch của phe Đồng minh từ một bản báo cáo gửi về Washington của đại tá Bonner Frank Fellers, một tùy viên quân sự Mỹ ở Cairo.
Tuy nhiên, máy thu thập tình báo Ultra và các nguồn tin địa phương đã cho quân Anh lợi thế thông tin. Tháng 8/1942, tướng Bernard Montgomery lên làm tổng tư lệnh các lực lượng Đồng minh ở Trung Đông, người sau này tham gia chỉ huy chiến dịch giải phóng Italia cũng như tổng chỉ huy quân Đồng minh trong chiến dịch Overlord.
Quân Đồng minh tổ chức ba chiến dịch để thực hiện đẩy lùi quân Phát xít. Chiến dịch Bertram được tổ chức bởi quân đội Anh nhằm đánh lạc hướng quân Đức bằng cách sử dụng các chốt nhiên liệu và tiếp tế giả.
Chiến dịch Braganza được quân Đồng minh tổ chức nhằm chiếm khu vực Deir el Munassib nhưng bị đẩy lùi bởi lính nhảy dù Itaia. Chiến dịch Lightfoot được tướng Montgomery thực hiện với ý đồ cắt hai hành lang qua bãi mìn của Đức ở phía Bắc hàng phòng thủ của phe Phát xít.
Rommel sau chiến dịch ở Tripoli biết hàng tiếp tế và quân lính của mình không đủ để tiếp tục đánh vào Ai Cập. Ông mong quân Đức ở Stalingrad sẽ thắng và di chuyển xuống Iran, đe dọa mặt trận Trung Đông từ hai phía. Rommel cho sư đoàn hạng nhẹ thứ 90 cùng thiết giáp có vai trò hỗ trợ đánh lùi bất kì nỗ lực tấn công nào của quân Đồng minh.
Quân Anh có 195.000 người, 1.029 xe tăng, 435 xe bọc thép, khoảng 730 máy bay, 900 khẩu pháo và 1.451 pháo chống tăng. Trong khi đó, với một lực lượng khiêm tốn hơn, Đức và Ý có tổng cộng 116.000 người, 547 tăng, 192 xe bọc thép, khoảng 800 máy bay, 550 khẩu pháo và khoảng 1.000 pháo chống tăng.
Tối 23/10, 1.000 khẩu pháo của Anh đánh oanh tạc hàng phòng thủ Đức. Tới 22 giờ, bộ binh Anh mở đường cho quân Đồng minh. Tuy nhiên, vì các xe quân dụng gây ra quá nhiều bụi khi tấn công nên di chuyển bị đình trệ và chỉ có một nửa lực lượng bộ binh đến được các mục tiêu chiến lược.
Tuy nhiên vào sáng hôm sau, Tướng Montgomery nhận thấy không có sự thay đổi nào trong hàng phòng thủ quân địch nên đã ra lệnh hoàn tất mở hành lang phía Bắc và đẩy quân địch qua cầu Miteiriya ở phía Nam. Sáng ngày 24, quân Đức và Italia hoảng loạn trước chiến dịch của quân Đồng Minh và không đưa ra được một phương hướng cụ thể nào.
Rommel bị Hitler triệu tập khi đang nghỉ phép và ông bay trở lại châu Phi ngay lập tức để nắm quyền chỉ huy. Tối ngày 25 ông trở về châu Phi và đánh giá tổng quan chiến trường. Các sư đoàn và phía Bắc chịu thiệt hại nặng nề, có đơn vị lên đến 50%.
Ông cho một số quân đoàn chiếm lại một số điểm quan trọng nhưng bị đẩy lại dưới làn pháo và chỉ chiếm lại được đồi số 28. Ông triệu tập tất cả thiết giáp rải khắp phòng tuyến và tập trung lại cùng với quân dự bị tổ chức phản công nhưng bị ngăn lại bởi sự thiếu hụt nhiên liệu và máy bay ném bom của Đồng minh.
Tới ngày 30, Rommel đã quyết định không cứu vãn được mặt trận nữa và lên kế hoạch rút lui về Fuka. Quân Đồng minh đã dọn xong bãi mìn liền cho quân thiết giáp liên tục tiến công, nhiều quân đoàn của Italia đã bị bao vây và hàng phòng thủ Đức đã bị bào mỏng đi gấp đôi.
Tới ngày 4/11, Rommel điện báo với Hitler về kế hoạch rút lui tới Fuka nhưng không đợi được phản hồi nên 17 giờ 30 đã bắt đầu cho rút quân. Trận El Alamein thứ hai là một chiến thắng quyết định cho quân Đồng Minh. Thủ tướng Anh Churchill từng nhận xét “Trước Alamein, ta chưa từng biết chiến thắng. Sau Alamein, ta không còn biết thất bại”.
Rommel rút quân đoàn châu Phi của mình về Fuka, tàn tạ và đuối sức. Đến đây coi như kết thúc sự nghiệp binh trường huy hoàng của “Cáo già sa mạc” ở mặt trận Bắc Phi, nơi đã làm nên tên tuổi của ông trong đệ nhị thế chiến. Nguồn ảnh: Warhistory.
Những thước phim màu cực hiếm về mặt trận Bắc Phi nảy lửa trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguồn: FootageArchive.