Dưới đây là 8 “trận đánh một ngày” đẫm máu nhất trong lịch sử (không liệt kê những trận đánh đẫm máu hơn nhưng diễn ra trong nhiều ngày):
1. Mỹ
Nội chiến Mỹ bước vào tháng thứ 18. Hai đội quân miền bắc và miền nam đụng độ ở Maryland chỉ cách thủ đô Washington 96km về phía tây bắc.
|
Trận Antietam. |
Vào ngày 13/9/1862, các quân nổi dậy dưới quyền chỉ huy của Robert E. Lee đã chiếm một bang biên giới trung lập với hy vọng sự hiện diện của một đội quân lớn của miền nam sẽ ép các cư dân ở đây gia nhập lực lượng nổi dậy.
Hơn 75.000 quân của Liên minh miền Bắc Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của George McClelland dàn đội hình để đánh chặn quân Liên minh miền Bắc Hoa Kỳ. Đây là một trận đánh quyết định, diễn ra bên ngoài thị trấn Sharpsburg gần một dòng suối nhỏ tên là Antietam.
Chiến sự bắt đầu vào lúc rạng sáng ngày 17/9 và tiếp tục đến chiều muộn. Các lực lượng đối địch chiến đấu đến khi kiệt sức hoàn toàn. Khoảng 18h thì im tiếng súng. Khi đó, tổng số thương vong là 20.000 người, trong đó có 4.000 người tắt thở.
Nội chiến Mỹ kéo dài thêm hai năm rưỡi nữa nhưng cho tới tận hôm nay, trận đánh Antietam vẫn là trận đánh đẫm máu nhất diễn ra trong một ngày trong toàn bộ lịch sử Mỹ, thậm chí còn đẫm máu hơn cả trận Trân Châu cảng và vụ tấn công 11/9.
Nhưng đấy là Mỹ. Còn các quốc gia khác không có may mắn ít thương vong hơn.
2. Anh
Nước Anh đã mất gần như từng ấy sinh mạng chỉ trong vài giờ đầu của trận tắm máu kéo dài vài tháng trong trận tấn công Somme.
Vào ngày 1/7/1916 hơn 54.000 lính Anh thuộc Tập đoàn quân số 3 và 4 đã bị nghiền nát bằng súng máy và trọng pháo khi họ lê bước qua vùng đất trống tiến về phòng tuyến quân Đức nằm phía đông thị trấn Albert.
Cuộc tấn công này khiến 20.000 người chết. Nhiều đơn vị gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Các đơn vị như là Trung đoàn Newfoundland Hoàng gia hứng chịu tổn thất quá 90%.
Mặc dù các lực lượng liên quân Anh-Pháp cố gắng đột phá chiến hào quân Đức ở một số điểm nhất định dọc theo tuyến mặt trấn 20km, nỗ lực của họ cuối cùng bị sa lầy và tạo ra thế giằng co trong 141 ngày với hơn 1 triệu thương vong. Cho đến nay, mức độ đổ máu ở Somme vẫn là biểu tượng hùng hồn về sức hủy diệt của chiến tranh chiến hào.
Ấy thế nhưng, ngày 1/7/1916 chưa phải là ngày chết chóc nhất trong lịch sử Anh Quốc. Một trận huyết chiến khác xảy ra vào thời điểm 453 năm trước Thế chiến thứ nhất. Trận chiến đó diễn ra trong Cuộc chiến tranh Hoa hồng.
Vào ngày 29/3/1461, 30.000 lính của vua Edward IV giáp mặt 35.000 lính trung thành với dòng họ Lancaster gần thị trấn Towton. Quân hai bên chém giết lẫn nhau trong cả ngày giữa lúc có một trận cuồng phong vây quanh họ.
Các sử gia đương thời ước tính con số thương vong vào thời điểm ngưng chiến là 27.000 lính Anh bị chém chết – tương đương với 1% dân số toàn nước Anh khi đó. Trong vài năm gần đây, một số sử gia đã ước tính số thi thể đếm được ở mức thấp hơn 10.000, nhưng số khác vẫn duy trì con số thương vong ban đầu.
3. Pháp
Không có gì mập mờ về số lượng binh sĩ Pháp tử trận ở Rossignol gần Ardennes vào ngày 22/8/1914. Các binh sĩ Pháp đã dốc sức chặn đà tiến của quân Đức trong trận Biên giới Bắc Pháp. Kết quả là hơn 27.000 lính của Đệ tam Cộng hòa đã chết như ngả rạ dưới tay quân đội của hoàng đế Đức. Trận này là trận đẫm máu nhất trong một ngày trong lịch sử Pháp.
|
Trận Rossignol. |
Ngày 18/6/1815 là một ngày đen tối khác của Pháp. Khi đó Đại quân của Napoleon đã thảm bại tại Waterloo. Tới 1/3 số quân của Napoleon (tổng cộng 25.000 người) bị thương vong trong cuộc đấu kéo dài hơn 10 tiếng đồng hồ. Phía Anh hứng chịu tổn thất là 15.000 người chết và bị thương, còn Phổ bị thương vong 7.000 người. Trước khi màn đêm buông xuống, có tới 30.000 lính phơi thây trên chiến trường.
Người ta kể rằng số tử sĩ nhiều đến nỗi mà những kẻ chuyên trục lợi từ xác chết đã kiếm lời bằng cách bán những chiếc răng lấy từ miệng của các thi thể nằm rải rác trên chiến trường. Các nha sĩ mua cả ngàn chiến lợi phẩm như thế này để sử dụng vào việc chế các răng giả trong các năm tới.
Trên thực tế, đối với một thế hệ sinh sau vụ chém giết này, các bộ răng giả trên khắp Tây Âu còn được đặt biệt danh “răng Waterloo”.
4. Ba Tư
Nhằm chinh phục toàn bộ Hy Lạp, hoàng đế Ba Tư Xerxes I lên kế hoạch sử dụng 900 tàu chiến cỡ lớn để đưa quân của mình đi vòng qua Attica và đổ bộ lên eo đất Corinth, thọc vào giữa các thành bang Hy Lạp.
Hy vọng về một cơ hội giáng đòn chí tử cho đội quân xâm lược, chính khách-tướng Themistocles tập hợp một đội tàu nhỏ và đợi đến khi hạm đội cồng kềnh của Ba Tư đi vào con kênh rộng hơn 3km giữa đảo Salamis và đất liền. Khi thời cơ tới, vị tướng thành Athens tung ra đòn sát thủ. Dù có số lượng ít hơn (với tỷ lệ 1 chọi 3), tàu Hy Lạp vẫn hiên ngang lao thẳng vào đội hình tàu Ba Tư, sử dụng việc đâm va để làm thủng vỏ tàu đối phương. Các lính bộ binh được trang bị vũ khí đầy mình đã xông lên các con tàu bị thương, thả sức xọc gươm vào bất cứ kẻ thù mà họ gặp. Bản thân em trai của hoàng đế Xerxes, Đô đốc Ariabignes là một trong những quân nhân Ba Tư đầu gục ngã trước gươm đao của quân Hy Lạp.
Cuộc chém giết tiếp diễn và cơn hoảng loạn ngập tràn hạm đội Ba Tư. Các con tàu Ba Tư chòng chành tìm cách tẩu thoát khỏi tàu Hy Lạp và va chạm vào nhau. Một số tàu Ba Tư bị mắc cạn, số khác bị lật khiến hàng ngàn thành viên thủy thủ đoàn (mỗi tàu có 150 người) bị hất xuống dòng nước dữ. Theo sử gia thời cổ đại Herodotus, nhiều quân Ba Tư không... biết bơi trong khi số khác bị trọng lượng của bộ giáp trên người dìm xuống đáy biển.
Chỉ trong vài phút, tới 300 tàu Ba Tư bị nước vào và có tới 40.000 quân xâm lược chết đuối. Từ trên bờ, hoàng đế Ba Tư Xerxes kinh hãi nhìn toàn cảnh cuộc chiến đang diễn ra với thất bại thuộc về hải quân của ông ta.
5. La Mã
Cộng hòa La Mã hứng chịu một thất bại thậm chí còn ê chề hơn thất bại của người Ba Tư. Vào ngày 2/8 năm 216 trước Công nguyên, một đội quân gồm 50.000 chiến binh do tổng thống lĩnh Hannibal của thành bang Carthage chỉ huy đã bao vây và “làm thịt” một đội quân gồm 90.000 lính Italy do Gaius Terentius Varro chỉ huy tại Cannae.
Mặc dù đông hơn quân xâm lược một chút xíu, các “giáo thủ” La Mã trang bị giáp dày không phải là đối thủ của lực lượng bộ binh địch cơ động hơn. Quân của tổng thống lĩnh Hannibal nhanh chóng vu hồi và bao vây quân La Mã. Trong vòng vài tiếng, lính của Hannibal chém giết tơi tả lính La Mã.
Theo các ước tính thời đó, hơn 50.000 lính La Mã đã bị tiêu diệt trong cuộc cận chiến này - tương đương với khoảng 20% dân số nam đủ tuổi phục vụ trong quân đội La Mã.
Sau vụ chém giết này, Hannibal đã cho thu thập nhẫn của các tử sĩ đối phương và gửi số nhẫn này về quê nhà, nơi những chiếc nhẫn được chất đống trên thềm Hội đồng Carthage.
Thành Rome điên loạn trước nguy cơ bị người Carthage cướp phá. Nhằm tránh họa thất trận hoàn toàn, các công dân thành La Mã thậm chí còn dùng đến việc hiến tế người sống để lấy lòng thần linh.
Viện nguyên lão La Mã vội vã tập hợp một đội quân mới và gửi ra mặt trận để chặn bước tiến của quân thù.
Tổng tư lệnh Hannibal gửi sứ giả tới đề nghị ký hòa ước. Thế nhưng Cộng hòa La Mã vẫn thách thức ông ta. Thậm chí thành bang La Mã còn ra lệnh cấm sử dụng từ “hòa bình” trong một thời gian. Cuộc kháng cự mạnh dần lên và Hannibal bỏ dở chiến dịch hãm thành và lui đội quân mệt mỏi của mình về Bắc Phi.
6. Nga
Trận chiến đẫm máu nhất trong 1 ngày của toàn lịch sử nhân loại là trận đánh diễn ra trên đất Nga ở Borodino vào cuối mùa hè năm 1812. Chỉ 3 tháng sau đó, Napoleon đã xâm lược đế chế của Sa hoàng Alexander bằng một đội quân được dự báo là lực lượng lục quân lớn nhất từng tập hợp được tại thời điểm đó: 680.000 người.
Trong toàn mùa hè, vị hoàng đế Pháp điều đội quân lê dương của mình vượt qua các vùng đồng bằng bụi bặm để thẳng tiến đến Moscow.
Sau đó một chuỗi trận đánh cộng với bệnh dịch typhus đã làm giảm phân nửa số binh sĩ Pháp.
Vào tháng 9 năm đó, gần 150.000 lính Nga tập hợp lại để cản bước quân Pháp ở khu vực ngôi làng Borodino cách thủ đô lịch sử của Nga khoảng 120km.
Trận huyết chiến bắt đầu vào đầu giờ sáng ngày 7/9 và diễn ra quyết liệt trong cả ngày hôm đó. Đến lúc xế chiều, quân đội Nga đã tan tác – tới 45.000 lính Sa hoàng bị chết hoặc bị thương. Thương vong của quân Pháp thấp hơn chút ít, nhưng vẫn là con số khủng: 35.000 người, trong đó có 49 vị tướng.
Tuy đổ nhiều máu, Napoleon vẫn giành được chiến thắng và tiến nhanh về Moscow. Trong vòng một tuần lễ, cờ của quân Pháp đã tung bay trên Nhà thờ Lớn Saint Basil.
Nhưng người Nga đã thực hiện vườn không nhà trống, đốt thành phố này trước khi rút đi. Hệ quả là, quân Napoleon chỉ kiểm soát một thành phố hoang tàn, trong khi mùa đông đang tới gần và lực lượng Nga tăng viện đang tập trung ở phía nam.
Trước tình cảnh đó, Napoleon vội hạ lệnh cho quân đội viễn chinh từ bỏ chiến quả và rút về nước. Thế nhưng người Nga đâu có để yên. Các kỵ binh Cossack của Sa hoàng cộng với thời tiết lạnh dưới 0 độ đã biến cuộc rút lui trong 2 tháng của quân Pháp thành địa ngục trần gian. Trong tổng số lực lượng xâm lược ban đầu (gần 700.000), chỉ có chưa tới 100.000 lính Pháp và quân đồng minh là sống sót ra khỏi nước Nga.