Thanh Long Uyển Đao
Đây là vũ khí gắn liền với Quan Vũ (Quan Vân Trường). Thanh Long Uyển Nguyệt Đao rất nặng nên nó thường được dùng để luyện tập cánh tay, không dùng trong chiến đấu. Nhưng trong Tam Quốc, Quan Vũ dùng vũ khí này chiến đấu khiến vạn người không địch nổi.
Theo nhiều tài liệu ghi chép lại, Thanh Long Đao của Quan Vũ nặng 82 cân thời xưa (khoảng 50kg ngày nay). Thanh Long Uyển Nguyệt Đao đã được thợ rèn đệ nhất thiên hạ làm ra và chỉ được rèn vào ngày trăng tròn. Khi Thanh Long Uyển Nguyệt Đao vừa được rèn xong, bỗng nhiên gió bão bắt đầu nổi lên, sau đó từ trên không trung rơi xuống 1780 giọt mưa máu. Người ta cho rằng, đó chính là máu của Thanh Long (con rồng màu xanh). Vì lý do đó mà nó đã được gọi với cái tên Thanh Long Uyển Nguyệt Đao. Thanh đao này cũng đã lấy mạng 1780 người.
Trong Tam Quốc, Quan Vũ cùng chiếc đao này đã lấy mạng không ít võ tướng. Sau khi Quan Vũ chết, Thanh Long Uyển Nguyệt Đao đã bị một tướng của Đông Ngô là Phan Chương chiếm đoạt. Cuối cùng Quan Hưng con của Quân Vân Trường đã giết Phan Chương để trả thù cho cha và lấy lại Thanh Long Uyển Nguyệt Đao này. Thanh Long Uyển Nguyệt Đao và Quan Vũ đã trở thành một biểu tượng không thể tách rời.
Phương Thiên Họa Kích
Hình ảnh Phương Thiên Họa Kích gắn liền với mãnh tướng Lữ Bố. Phương Thiên Họa Kích cùng ngựa Xích Thố giúp Lữ Bố trở nên cực kỳ dũng mãnh, một mình đọ tài ngang sức với ba anh em Lưu - Quan - Trương.
“Phương thiên” nghĩa là “nghiêng/ lệch sang một bên”, chứng tỏ vũ khí của Lã Bố chỉ có một mảnh thép chứ không phải hai. Riêng chữ “hoạ kích” – cây kích đem lại tai họa - lại được sử dụng như một cách để nhấn mạnh tính huỷ diệt và đáng sợ của vũ khí này.
Kích vốn là một vũ khí khó sử dụng. Với trọng lượng nặng hơn các vũ khí khác, cộng thêm sở hữu nhiều đòn thế đa dạng và phức tạp, kích đòi hỏi người sử dụng phải có một sức khoẻ và bản lĩnh “tương đối”. Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Lữ Bố 11 tuổi đã đánh bại đại lực sĩ giỏi nhất của dòng tộc, sau này lớn lên gặp tướng thì trảm tướng, đối đầu với vạn quân không hề mảy may run sợ. Tác giả khắc hoạ hình ảnh Lữ Bố gắn liền với Phương Thiên Họa Kích, hẳn cũng có “ý đồ” làm nổi bật tài năng của vị danh tướng này.
Cặp bài trùng Phương Thiên Họa Kích và Lữ Bố trở thành một trong những điểm nhấn quan trọng nhất của Tam Quốc diễn nghĩa. Không chỉ là một nhân vật, một vũ khí và một câu chuyện, đó còn là những bài học sâu sắc đối với người đọc về sự trung thành và chính trực. Có thể, Phương Thiên Họa Kích chưa từng tồn tại ngoài đời thật, thế nhưng xét về mặt văn học, Phương Thiên Họa Kích là mảnh ghép hoàn hảo cho Lữ Bố và Tam Quốc diễn nghĩa.
Bát Xà Mâu
Bát Xà Mâu là binh khí được Trương Phi sử dụng, theo mô tả đây là cây mâu dài, lưỡi được uốn lượn như thân rắn, đầu được mài sắc. Bát Xà Mâu thường được sử dụng để đâm, chém ngang với tốc độ cao. Ngoài ra còn được sử dụng để bổ và trượt dọc thân vũ khí của đối thủ nhằm buộc đối thủ phải buông vũ khí.
Người sử dụng Bát Xà Mâu phải kết hợp được sức mạnh và sự nhanh nhẹn, khả năng ứng biến trong mỗi trận đấu tốt.Với Bát Xà Mâu trong tay, Trương Phi đã tung hoành khắp các chiến địa nổi tiếng nhất thời Tam Quốc, cùng Lưu Bị đánh quân Khăn Vàng, đụng độ Lã Bố ở Hổ Lao quan, đánh Tào Tháo ở Xích Bích, vào Tây Xuyên diệt Lưu Chương… Trương Phi và Bát Xà Mâu, cùng con ngựa “Ô vân đạp tuyết” là một trong những sự kết hợp mạnh mẽ nhất, thể hiện đầy đủ dũng khí của một tướng quân thời cổ đại.
Tam Xích Thanh Phong
Thanh kiếm này gắn liền với hình ảnh Lưu Bị. Trong võ lâm, để sử dụng được song kiếm nhất định không phải người tầm thường. Kiếm hay gươm là một loại vũ khí lạnh cấu tạo từ một thanh kim loại dài được mài bén dùng để đâm, chém trong tác chiến. Dài hơn dao, hẹp, nhẹ và mỏng hơn đao, kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượng cổ.
Sở hữu Tam Xích Thanh Phong, với hai tay hai kiếm, Lưu Bị đã từng đấu với Lã Bố trong trận ở Hổ Lao Quan, đã từng đánh với đô đốc Hạ Hầu Đôn ở gò Bác Vọng. Trước những đối thủ mạnh và rất mạnh như thế, đôi song kiếm này đã hoàn thành xuất sắc vai trò bảo vệ chủ nhân của mình.
Tam Tiêm Thương
Tam Tiêm Thương được mô phỏng theo loại binh khí trong truyền thuyết của Nhị Lang Thần do Giao Long ba đầu hóa thành. Cây thương này phần đầu được làm to, mài sắc hai cạnh, đầu của thương được chẻ làm ba. Với thiết kế như vậy người sử dụng có thể bổ mạnh uy hiếp đối thủ, móc, kẹp vũ khí và có thể đâm làm đối thủ ngã ngựa. Trong Tam Quốc, Tam Tiêm Thương được Khương Duy sử dụng.
Một người nữa cũng sử dụng thương vô cùng điêu luyện trên chiến trường chính là một trong ngũ hổ tướng của Tây Thục: Triệu Tử Long. Với cây thương của mình, Tử Long đã từng khiến Tào Tháo giật mình sửng sốt. Trong trận Đương Dương, Trường Bản, Tử Long đã dùng cây thương này để cứu ấu chúa A Đẩu, con trai Lưu Bị và lấy mạnghàng chục viên tướng của Tào Tháo. Trong trận mạc, Tử Long chính là một viên tướng uy dũng vô cùng.
Đàn Thất Huyền Cầm
Trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, chiếc đàn Thất Huyền Cầm không phải là một loại vũ khí gây sát thương trực tiếp nhưng có khả năng đánh đuổi cả một đội quân hùng hậu. Khi Gia Cát Lượng bị Tư Mã Ý vây ở Tây Thành, trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, ông đã mang cây đàn ấy lên ngồi trên mặt thành bình thản gảy. Khi nghe âm luật và nhìn phong thái bình tĩnh, với tiếng đàn “truyền giao cách cảm” hàm chứa thông điệp đầy ẩn ý của Khổng Minh, Tư Mã Ý hiểu ý liền vội rời đi.
Thực ra Tư Mã Ý sợ có quân mai phục trong thành chỉ là một lý do. Nguyên nhân đằng sau là Tư Mã Ý hiểu chỉ khi Gia Cát Lượng còn thì mình cũng mới bình an vô sự. Một khi Gia Cát Lượng không còn, Tư Mã Ý cũng sớm bị hoàng đế nước Ngụy trừ bỏ.
Với Gia Cát Lượng mà nói, đây cũng là một kiểu ‘chiến tranh tâm lý’ cực kỳ đặc biệt. Người ta nói, tiếng đàn của Gia Cát Lượng có sức mạnh của chục vạn hùng binh là như vậy.
Tiếng đàn đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình như một loại ‘vũ khí’ lợi hại, xưa nay ít thấy. Chỉ có các bậc cao nhân mới có thể sử dụng chúng và ‘đối thủ’ cũng nhất định là phải ở cùng một cảnh giới thật cao mới có thể hiểu nổi.