1. Đảo Thule. Vào khoảng năm 325 trước công nguyên, thương nhân Pytheas người Hy Lạp đã rong buồm từ cảng Massalia (tức Marseilles ngày nay) đến Đại Tây Dương và khu vực phía Bắc. Ông là người đầu tiên miêu tả nước Anh trong những tài liệu cổ. Khi đó, ông gọi vùng đất đó là Britannia hay Pritannia và đã nhìn thấy một hòn đảo ở phía Bắc là Thule. Thật không may là những tài liệu ghi chép của Pytheas bị mất và con người chỉ có thể biết một số thông tin về nó qua các tài liệu của nhà địa lý Strabo và nhiều nhà thám hiểm khác.
Strabo cho rằng, đảo Thule là một phát hiện vĩ đại. Nó nằm ở vùng biển phía Bắc. Strabo đã vẽ lại vị trí của hòn đảo đó vào trong tấm bản đồ thế giới của mình và xuất bản vào khoảng năm 100 trước công nguyên. Sau đó, trong những năm 1410, các học giả Florence đã xuất bản cuốn sách trong đó có vị trí của hòn đảo Thule nằm ở phía Bắc Vương quốc Anh. Nó là một hòn đảo lớn và người ta đã xuất bản tấm bản đồ trên vào thế kỷ XVII. Hiện các nhà địa lý, chuyên gia vẫn đang tìm kiếm hòn đảo bị mất tích này.
2. Đảo St Brendan. Vào năm 530 sau công nguyên, thầy tu người Ireland tên là Brendan và các đồ đệ của mình (khoảng 18-150 người) đã vượt qua Đại Tây Dương để đi tìm vùng đất thiên đường. Trong suốt 7 năm, họ sống trên một hòn đảo với khí hậu hoàn hảo, người dân hạnh phúc cùng thiên nhiên trù phú. Người ta cho rằng, chuyến đi này là có thực dù phải 300 năm sau người ta mới biết đến chuyến thám hiểm này.
Hòn đảo đó mang tên St Brendan và xuất hiện trên tấm bản đồ nổi tiếng nhất thời Trung cổ có tên Hereford Mappa Mundi. Nó cũng xuất hiện trong các bản đồ ở thế kỉ 17 của Mercator và Ortelius, trong bản đồ De Lisle năm 1707. Theo đó, hòn đảo này được cho là nằm ở phía Tây Canaries, Tây Ban Nha. Mặc dù sau này, hòn đảo không còn xuất hiện trên bản đồ và bị coi là không tồn tại nhưng vẫn có những người không ngừng tin vào nó.
3. Đảo Buss. Năm 1576, Martin Frobisher bắt đầu cuộc tìm kiếm con đường Tây Bắc từ châu Âu sang châu Á. Trong chuyến đi thứ 2 trên con tàu mang tên Emmanuel, Frobisher đã đi ngang một hòn đảo và được miêu tả là "một vùng đất tuyệt vời đầy hoa trái và có nhiều cánh rừng". Hòn đảo được đặt tên là Buss và xác định vị trí trên bản đồ. Tuy nhiên, tới năm 1671, thủy thủ người Anh có tên Thomas Shepard mới có thể đặt chân lên hòn đảo này sau nhiều lần tìm kiếm.
Sau đó, Shepard từng tìm cách quay trở lại đảo Buss nhưng không thành công. Hòn đảo trù phú đó sớm biến mất khỏi Trái đất. Một số người cho rằng, nó đã chìm xuống dưới nước. Đến giữa thế kỉ XIX, những người vẽ bản đồ xác định nó không còn tồn tại và xóa tên đảo khỏi bản đồ địa lý.4. Đảo Frisland. Năm 1558, Nicolo Zeno đã công bố một tấm bản đồ và các lá thư được cho là có từ thời cụ tổ của ông và một người họ hàng trong dòng họ. Những người này đã đi qua Bắc Đại Tây Dương vào năm 1400. Các bức thư của hai tổ tiên ông Zeno được gửi từ một hòn đảo mang tên Frisland. Trên bản đồ, Frishland nằm ở giữa cực Tây Bắc của Scotland và Nauy. Tuy nhiên, số thư từ đó được cho là không rõ ràng, chính xác khi lần đầu công bố với công chúng và các học giả. Nhưng điều đó không cản trở việc các nhà làm bản đồ nổi tiếng thời đó công nhận đảo Frisland thực sự tồn tại và vẽ chúng lên bản đồ thế giới.
Những người làm bản đồ đã vẽ đảo Frisland ở vị trí mà Zeno miêu tả. Theo đó, nó nằm lệch rất xa về phía Tây, tới mức trở thành một phần lãnh thổ của Bắc Mỹ. Một số bản đồ còn kèm theo cả tên các dãy núi, vịnh biển và các thị trấn. Hiện các chuyên gia vẫn chưa tìm thấy nó và cho rằng, đó có thể là hòn đảo tưởng tượng. 5. Quần đảo Emerald và Nimrod. Tới cuối thế kỉ XVIII, các nhà thám hiểm chuyển hướng những cuộc hành trình khám phá vùng đất mới từ Bắc Đại Tây Dương sang Nam Thái Bình Dương. Dù các thủy thủ đã đưa ra các câu chuyện về việc Tahiti là một thiên đường, các cuộc tìm kiếm vẫn tập trung vào những thứ có ích hơn như gỗ, khoáng sản hay thậm chí cả những hòn đảo có thể trở thành địa điểm tập kết tàu giữa Nam Mỹ và Australia. Vào thời điểm đó, người ta đã giải quyết được việc ghi nhận kinh độ và các tọa độ chính xác của những nơi mà con tàu đi qua trong nhật kí hải trình.
Năm 1821, thuyền trưởng William Eliot là người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho vùng đất mới là đảo Emerald. Sau đó, đến năm 1828 một quần đảo khác được phát hiện và đặt tên là Nimrod - tên của con tàu đã phát hiện ra nó. Đến năm 1909, thuyền trưởng John King Davis tới đúng vị trí của hai hòn đảo như trên bản đồ, nhưng không nhìn thấy bất cứ dấu tích gì về sự tồn tại của hai hòn đảo trên. Khi đó, người ta suy luận, rất có thể Eliot và các thủy thủ trên tàu Nimrod đã mắc chứng ảo giác vùng cực khiến họ tin rằng đã nhìn thấy những hòn đảo trên. Đến năm 1940, các chuyên gia mới xếp đảo Emerald và quần đảo Nimrod vào danh sách các hòn đảo không có thực. 6. Vùng đất Crocker. Năm 1906, Robert Peary tìm thấy một vùng đất lớn ngoài khơi đảo Ellesmere, thuộc vùng Bắc Cực. Khi đó, ông đặt tên cho vùng đất này là Crocker – tên của một trong những người đã hỗ trợ tài chính cho nhà thám hiểm này. Khi đó, Peary phải đối mặt với lời cáo buộc rằng, ông đã tạo ra vụ lừa đảo về việc phát hiện ra hòn đảo trên. Một số phỏng đoán ông có khả năng gặp phải hiện tượng ảo giác vùng cực.
Năm 1913, Donald Baxter MacMillan thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ dẫn đầu một cuộc thám hiểm. Ông là người rất quan tâm đến những chuyến hành trình phát hiện các loài thực vật, động vật mới hay chủng người mới. Chính vì vậy, khi nghe được thông tin về vùng đất Crocker, ông và nhiều người khác đã lên đường thám hiểm địa danh mới huyền bí đó.
Cũng giống như nhiều chuyến thám hiểm địa cực trước đó, đoàn thán hiểm của ông nhanh chóng phải đối mặt với những khó khăn về thời tiết, bệnh tật tồi tệ hơn rất nhiều so với dự kiến. Trong chuyến hành trình đó, ông bị thương do bỏng lạnh. Nhiều thành viên trong đoàn đau ốm nên đã phải quay lại nơi đóng trại. Thêm vào đó, những người dân Inuit bản địa khẳng định với đoàn thám hiểm rằng không hề tồn tại vùng đất Crocker. Cuối cùng, họ không tìm thấy vùng đất mới mà chỉ chụp được ảnh người dân Inuit.
1. Đảo Thule. Vào khoảng năm 325 trước công nguyên, thương nhân Pytheas người Hy Lạp đã rong buồm từ cảng Massalia (tức Marseilles ngày nay) đến Đại Tây Dương và khu vực phía Bắc. Ông là người đầu tiên miêu tả nước Anh trong những tài liệu cổ. Khi đó, ông gọi vùng đất đó là Britannia hay Pritannia và đã nhìn thấy một hòn đảo ở phía Bắc là Thule. Thật không may là những tài liệu ghi chép của Pytheas bị mất và con người chỉ có thể biết một số thông tin về nó qua các tài liệu của nhà địa lý Strabo và nhiều nhà thám hiểm khác.
Strabo cho rằng, đảo Thule là một phát hiện vĩ đại. Nó nằm ở vùng biển phía Bắc. Strabo đã vẽ lại vị trí của hòn đảo đó vào trong tấm bản đồ thế giới của mình và xuất bản vào khoảng năm 100 trước công nguyên. Sau đó, trong những năm 1410, các học giả Florence đã xuất bản cuốn sách trong đó có vị trí của hòn đảo Thule nằm ở phía Bắc Vương quốc Anh. Nó là một hòn đảo lớn và người ta đã xuất bản tấm bản đồ trên vào thế kỷ XVII. Hiện các nhà địa lý, chuyên gia vẫn đang tìm kiếm hòn đảo bị mất tích này.
2. Đảo St Brendan. Vào năm 530 sau công nguyên, thầy tu người Ireland tên là Brendan và các đồ đệ của mình (khoảng 18-150 người) đã vượt qua Đại Tây Dương để đi tìm vùng đất thiên đường. Trong suốt 7 năm, họ sống trên một hòn đảo với khí hậu hoàn hảo, người dân hạnh phúc cùng thiên nhiên trù phú. Người ta cho rằng, chuyến đi này là có thực dù phải 300 năm sau người ta mới biết đến chuyến thám hiểm này.
Hòn đảo đó mang tên St Brendan và xuất hiện trên tấm bản đồ nổi tiếng nhất thời Trung cổ có tên Hereford Mappa Mundi. Nó cũng xuất hiện trong các bản đồ ở thế kỉ 17 của Mercator và Ortelius, trong bản đồ De Lisle năm 1707. Theo đó, hòn đảo này được cho là nằm ở phía Tây Canaries, Tây Ban Nha. Mặc dù sau này, hòn đảo không còn xuất hiện trên bản đồ và bị coi là không tồn tại nhưng vẫn có những người không ngừng tin vào nó.
3. Đảo Buss. Năm 1576, Martin Frobisher bắt đầu cuộc tìm kiếm con đường Tây Bắc từ châu Âu sang châu Á. Trong chuyến đi thứ 2 trên con tàu mang tên Emmanuel, Frobisher đã đi ngang một hòn đảo và được miêu tả là "một vùng đất tuyệt vời đầy hoa trái và có nhiều cánh rừng". Hòn đảo được đặt tên là Buss và xác định vị trí trên bản đồ. Tuy nhiên, tới năm 1671, thủy thủ người Anh có tên Thomas Shepard mới có thể đặt chân lên hòn đảo này sau nhiều lần tìm kiếm.
Sau đó, Shepard từng tìm cách quay trở lại đảo Buss nhưng không thành công. Hòn đảo trù phú đó sớm biến mất khỏi Trái đất. Một số người cho rằng, nó đã chìm xuống dưới nước. Đến giữa thế kỉ XIX, những người vẽ bản đồ xác định nó không còn tồn tại và xóa tên đảo khỏi bản đồ địa lý.
4. Đảo Frisland. Năm 1558, Nicolo Zeno đã công bố một tấm bản đồ và các lá thư được cho là có từ thời cụ tổ của ông và một người họ hàng trong dòng họ. Những người này đã đi qua Bắc Đại Tây Dương vào năm 1400. Các bức thư của hai tổ tiên ông Zeno được gửi từ một hòn đảo mang tên Frisland. Trên bản đồ, Frishland nằm ở giữa cực Tây Bắc của Scotland và Nauy. Tuy nhiên, số thư từ đó được cho là không rõ ràng, chính xác khi lần đầu công bố với công chúng và các học giả. Nhưng điều đó không cản trở việc các nhà làm bản đồ nổi tiếng thời đó công nhận đảo Frisland thực sự tồn tại và vẽ chúng lên bản đồ thế giới.
Những người làm bản đồ đã vẽ đảo Frisland ở vị trí mà Zeno miêu tả. Theo đó, nó nằm lệch rất xa về phía Tây, tới mức trở thành một phần lãnh thổ của Bắc Mỹ. Một số bản đồ còn kèm theo cả tên các dãy núi, vịnh biển và các thị trấn. Hiện các chuyên gia vẫn chưa tìm thấy nó và cho rằng, đó có thể là hòn đảo tưởng tượng.
5. Quần đảo Emerald và Nimrod. Tới cuối thế kỉ XVIII, các nhà thám hiểm chuyển hướng những cuộc hành trình khám phá vùng đất mới từ Bắc Đại Tây Dương sang Nam Thái Bình Dương. Dù các thủy thủ đã đưa ra các câu chuyện về việc Tahiti là một thiên đường, các cuộc tìm kiếm vẫn tập trung vào những thứ có ích hơn như gỗ, khoáng sản hay thậm chí cả những hòn đảo có thể trở thành địa điểm tập kết tàu giữa Nam Mỹ và Australia. Vào thời điểm đó, người ta đã giải quyết được việc ghi nhận kinh độ và các tọa độ chính xác của những nơi mà con tàu đi qua trong nhật kí hải trình.
Năm 1821, thuyền trưởng William Eliot là người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho vùng đất mới là đảo Emerald. Sau đó, đến năm 1828 một quần đảo khác được phát hiện và đặt tên là Nimrod - tên của con tàu đã phát hiện ra nó. Đến năm 1909, thuyền trưởng John King Davis tới đúng vị trí của hai hòn đảo như trên bản đồ, nhưng không nhìn thấy bất cứ dấu tích gì về sự tồn tại của hai hòn đảo trên. Khi đó, người ta suy luận, rất có thể Eliot và các thủy thủ trên tàu Nimrod đã mắc chứng ảo giác vùng cực khiến họ tin rằng đã nhìn thấy những hòn đảo trên. Đến năm 1940, các chuyên gia mới xếp đảo Emerald và quần đảo Nimrod vào danh sách các hòn đảo không có thực.
6. Vùng đất Crocker. Năm 1906, Robert Peary tìm thấy một vùng đất lớn ngoài khơi đảo Ellesmere, thuộc vùng Bắc Cực. Khi đó, ông đặt tên cho vùng đất này là Crocker – tên của một trong những người đã hỗ trợ tài chính cho nhà thám hiểm này. Khi đó, Peary phải đối mặt với lời cáo buộc rằng, ông đã tạo ra vụ lừa đảo về việc phát hiện ra hòn đảo trên. Một số phỏng đoán ông có khả năng gặp phải hiện tượng ảo giác vùng cực.
Năm 1913, Donald Baxter MacMillan thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ dẫn đầu một cuộc thám hiểm. Ông là người rất quan tâm đến những chuyến hành trình phát hiện các loài thực vật, động vật mới hay chủng người mới. Chính vì vậy, khi nghe được thông tin về vùng đất Crocker, ông và nhiều người khác đã lên đường thám hiểm địa danh mới huyền bí đó.
Cũng giống như nhiều chuyến thám hiểm địa cực trước đó, đoàn thán hiểm của ông nhanh chóng phải đối mặt với những khó khăn về thời tiết, bệnh tật tồi tệ hơn rất nhiều so với dự kiến. Trong chuyến hành trình đó, ông bị thương do bỏng lạnh. Nhiều thành viên trong đoàn đau ốm nên đã phải quay lại nơi đóng trại. Thêm vào đó, những người dân Inuit bản địa khẳng định với đoàn thám hiểm rằng không hề tồn tại vùng đất Crocker. Cuối cùng, họ không tìm thấy vùng đất mới mà chỉ chụp được ảnh người dân Inuit.