50 năm xuân Mậu Thân 1968: Tự hào “Dáng đứng Việt Nam”

Google News

(Kiến Thức) - Hình ảnh người chiến sĩ hy sinh trong tư thế tựa người vào xác chiếc tăng M41, tay vẫn kẹp chặt khẩu AK chĩa họng súng về phía quân thù trong xuân Mậu Thân 1968 là nguồn cảm ứng để Lê Anh Xuân sáng tác bài Dáng đứng Việt Nam.

Tiểu đoàn D16 là một trong những đơn vị anh dũng, chiến đấu quật cường tới người cuối cùng trong chiến dịch xuân Mậu Thân 1968. Sự chiến đấu của họ là nguồn cảm hứng để nhà thơ Lê Anh Xuân sáng tác "Dáng đứng Việt Nam". 
Tiểu đoàn của những người Anh hùng
Tiểu đoàn D16 - Phân khu 2 - Long An nguyên là D5, E24, Sư đoàn 304B thuộc Quân khu 3 được thành lập ngày 15/9/1965 (hầu hết cán bộ chiến sỹ quê Nam Định và Thanh Hóa).
Tổ quốc đời đời ghi công những Anh hùng Liệt sĩ hy sinh trong trận đánh Tết Mậu Thân 1968. 
Ngày 10/2/1967, D5 nhận lệnh vào Nam chiến đấu, D5 đã vượt qua muôn vàn gian khổ, ác liệt trên đường Trường Sơn với phiên hiệu là Đoàn 209A chiến trường đảm bảo tốt quân số. Tiểu đoàn 16 dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh đã đánh 15 trận lớn nhỏ; tiêu diệt và làm bị thương 500 tên địch; thu nhiều vũ khí, quân trang.
Từ tháng 12/1967 đến tháng 3/1971, nhận lệnh của Bộ Chỉ huy và Quân ủy Miền, Tiểu đoàn 16 hành quân về Long An với phiên hiệu D16 Long An, thuộc Trung đoàn 31, Phân khu 2, chuẩn bị bước vào chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân 1968.
Thời gian chuẩn bị chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 lúc này rất khẩn trương, bí mật. D16 chỉ có thời gian khoảng 1 tháng vừa tìm hiểu thực địa chiến trường đồng bằng, vừa huấn luyện, sắp xếp lực lượng, củng cố để chuẩn bị nhận nhiệm vụ quan trọng.
Ngày 29/1/1968 (tức ngày 28 Tết Nguyên đán), D16 được lệnh xuống chiến trường. Sau 1 đêm hành quân đầy gian khổ vượt sông Vàm Cỏ Đông, D16 với 100% quân số đã tập kết đúng thời gian tại đình Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Chiều ngày 30/1/1968 (29 Tết), D16 nhận lệnh tiến công địch của Bộ Chỉ huy Miền, được sắp xếp vào đội hình Trung đoàn 31 của Phân khu 2 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất từ góc Tây Nam, tiếp đó đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Ngụy rồi phát triển sâu vào nội đô và hội quân tại dinh Độc Lập.
Theo kế hoạch tác chiến, đúng giờ G, pháo binh ĐKB của Bộ Tư lệnh Miền sẽ bắn vào sân bay là tiếng súng phát lệnh tiến công cho các cánh quân đánh vào Sài Gòn. Thế nhưng, giờ G trôi qua, sân bay Tân Sơn Nhất vẫn yên lặng.
Đợi đến 2h rạng sáng ngày 31/1/1968 (30 Tết), D16 khai hỏa loạt cối 82mm bắn vào sân bay; đồng thời, mũi xung kích tiến đánh vào trong. Trận đánh chiếm lôcốt đầu cầu góc Tây Nam sân bay rất cam go. Những trái B40 vẫn chưa thể dập tắt hỏa lực địch. Bộ đội ta một số bị thương vong, xung kích, một số phải điều tổ đánh bộc phá lên. Một chiến sĩ đã ôm bộc phá dũng cảm xông thẳng vào lỗ châu mai có khẩu đại liên đang bắn. Bộc phá nổ, người chiến sĩ này đã anh dũng hy sinh, lô cốt đầu cầu bị đánh sập, các chiến sĩ C1, C2 nhanh chóng tiến vào trong. C1 theo đường tuần tra bên phải tiến đánh, chiếm được 2 nhà để máy bay.
Sáng 31/1/1968, địch củng cố lực lượng và bắt đầu phản kích. C1 bám sát từng xác xe tăng địch để chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt phản kích, tiêu diệt hơn 150 tên địch, bắn cháy 5 xe tăng. Nhưng đến trưa thì C1 hết đạn, hy sinh gần hết. Chính trị viên phó Nguyễn Văn Mẹo đã hy sinh trong tư thế tựa người vào xác chiếc M41 bị quân ta bắn hỏng, tay vẫn kẹp chặt khẩu súng AK chĩa họng súng như chờ quân địch đến gần để nhả đạn.
C2 đánh vòng theo đường tuần tra bên trái tiến sát khu gia binh, đánh đẩy lui bọn địch vào sâu. C2 đẩy lùi hàng chục đợt phản kích của địch, diệt 170 tên, bắn hủy 4 xe tăng và xe bọc thép M113. Đến trưa, quân ta hết đạn, lại bị địch phản kích dữ dội, nên trên ra lệnh mở đường máu để thoát ra khu hãng dệt Vinatexco.
Địch huy động trực thăng bắn xối xả xuống đội hình quân ta trên đất trống làm quân ta thương vong khá nhiều. Chúng còn cho một đoàn xe tăng từ Gò Vấp chạy xuống cắt ngang lộ 1, bắn 12,7mm và pháo tự hành dọc theo lộ. Trung đội đại liên ta đánh trả quyết liệt, bắn rơi 2 trực thăng và 1 máy bay khu trục. Đại đội 3 bộ binh và các lực lượng bên ngoài sân bay Tân Sơn Nhất của D16 lúc này chỉ còn chưa đầy 100 quân vẫn bám trụ đánh địch suốt ngày 31/1/1968, tiêu diệt thêm 3 xe tăng M41, bắn rơi 1 trực thăng, diệt hàng trăm tên Mỹ - Ngụy.
Ngôi mộ tập thể 182 cán bộ chiến sỹ hy sinh trong trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất vào Tết Mậu Thân 1968 tại Nghĩa trang liệt sỹ TP.HCM.
Trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất của D16 là một trận đánh với tinh thần quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, dũng cảm kiên cường, còn một người cũng đánh đến cùng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968. 380 cán bộ chiến sỹ D16 đã vĩnh viễn nằm lại, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Trong đó, có 1 ngôi mộ tập thể gồm 182 cán bộ chiến sỹ, sau này nhờ có người lính cứu hỏa của chế độ Sài Gòn chỉ giúp nên mới được quy tập về Nghĩa trang liệt sỹ TP.HCM.
Với những cống hiến và hy sinh to lớn, D16 được Nhà nước tặng thưởng: 320 huy hiệu Dũng sỹ quyết thắng; 150 huy hiệu Dũng sỹ diệt Mỹ... 45 Huân chương Chiến công cho tập thể và cá nhân và nhiều phần thưởng khác. Mới đây, Tiểu đoàn 16 và liệt sỹ Nguyễn Văn Sáu (nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn) vừa được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Tự hào "Dáng đứng Việt Nam"
Chính tư thế hi sinh oai dũng của Chính trị viên phó Nguyễn Văn Mẹo đã tạo cảm hứng xuất thần để nhà thơ Lê Anh Xuân khi chứng kiến viết nên những vần thơ Dáng dứng Việt Nam:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

Nhà thơ Lê Anh Xuân, tên khai sinh là Ca Lê Hiến, sinh ngày 5/6/1940 tại xã An Hội, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.

Mộ phần Liệt sĩ, nhà thơ Lê Anh Xuân tại Nghĩa trang liệt sĩ TP.HCM.

Năm 1954, ông theo gia đình tập kết ra Bắc, rồi trở thành sinh viên khoa sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau đó tình nguyện trở về quê hương miền Nam cuối năm 1964; tháng 7/1965, công tác tại Hội Văn nghệ Giải phóng. Nhà thơ Lê Anh Xuân hy sinh ngày 24/5/1968, trong đợt 2 chiến dịch Mậu Thân tại Mặt trận phía Nam Sài Gòn.

Vũ Sơn

>> xem thêm

Bình luận(0)