Một loại máy bay khác của Mỹ là Northrop F-5 Tiger II. Được trang bị cho không quân Mỹ và chư hầu, là một trong những máy bay linh hoạt nhất trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Sau ngày 30/4/1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp nhận hơn 100 chiếc F-5 còn nguyên vẹn.F-5 có chiều dài 16m, có thể đạt tốc độ 1.700 km/h và được trang bị hai pháo M39A2 Revolver 20 mm, với 280 viên đạn trên mỗi khẩu pháo và có thể mang theo nhiều loại rocket khác nhau, tên lửa Sidewinder, Maverick và loạt bom Mark.Tiếp theo là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-15, một thiết kế của Liên Xô. MiG-15 là một trong những dòng máy bay chiến đấu phản lực nổi tiếng nhất mọi thời đại của Liên Xô và cũng là một trong những máy bay chiến đấu phản lực được sản xuất nhiều nhất với hơn 13.000 chiếc.MiG-15 được sử dụng nhiều nhất trong chiến tranh Triều Tiên, nhưng MiG-15 chỉ được sử dụng cho mục đích đào tạo, huấn luyện trong thời gian kháng chiến chống Mỹ và không được sử dụng trong chiến đấu.MiG-15 có chiều dài 11m, có thể đạt tốc độ tối đa hơn 1.000 km/h, máy bay được trang bị hai khẩu pháo tự động 23 mm Nudelman-Rikhter NR-23, với 80 viên đạn mỗi khẩu, và pháo tự động 37 mm Nudelman N-37 với 40 viên đạn.Tiếp theo là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-17. Chiếc MiG này đã bổ sung thêm tốc độ và hỏa lực cho Không quân Nhân dân Việt Nam ngay từ đầu cuộc chiến. MiG-17 đã tham gia vào các cuộc đối đầu với máy bay của không quân Mỹ những năm đầu đến giữa những năm 60.Các máy bay MiG-17 đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa, ngăn chặn mọi nỗ lực tấn công cầu của máy bay F-105 và duy trì quyền kiểm soát của Không quân Nhân dân Việt Nam trên bầu trời miền Bắc Việt Nam.MiG-17 dài 12m, có thể đạt tốc độ tối đa hơn 1.000 km/h, phạm vi hoạt động hơn 2.000 km và được trang bị hai pháo tự động Nudelman-Rikhter NR-23 23 mm, 80 viên đạn mỗi khẩu, một pháo tự động Nudelman N-37 37 mm, bệ rocket UB-16-57 và bom.Tiếp theo là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-19. Là chiếc máy bay siêu thanh được bổ sung kịp thời của Liên Xô, nhằm tăng cường khả năng phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, MiG-19 có tầm bay rất ngắn, khó có thể theo kịp máy bay F-4 Phantom II của Mỹ.MiG-19 có chiều dài 14m, có thể đạt tốc độ tối đa khi được trang bị động cơ phản lực đốt sau Tumansky RD-9B và được trang bị pháo tự động 30 mm Nudelman-Rikhter NR-30, 2 ống phóng rocket ORO-57K hoặc FAB-250.Cuối cùng là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-21, đây là sự thay thế hoàn hảo cho MiG-19 thường bị đánh giá là lép vế trước F-4 Phantom. MiG-21 hiệu quả hơn trong việc hạ gục máy bay F-105 Thunderchief và trong các trận chiến với F-4 Phantom.MiG-21 có chiều dài 16m, được trang bị động cơ phản lực đốt sau Tumansky R-25-300 cung cấp năng lượng cho máy bay phản lực đạt tốc độ 2.100 km/h. MiG-21 được trang bị pháo tự động 23 mm Gryazev-Shipunov GSh-23L, 4 rocket tên lửa UB-16-57, tên lửa không đối không K-13, R-55, R-60 và bom. Nguồn ảnh: Pinterest.
Một loại máy bay khác của Mỹ là Northrop F-5 Tiger II. Được trang bị cho không quân Mỹ và chư hầu, là một trong những máy bay linh hoạt nhất trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Sau ngày 30/4/1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp nhận hơn 100 chiếc F-5 còn nguyên vẹn.
F-5 có chiều dài 16m, có thể đạt tốc độ 1.700 km/h và được trang bị hai pháo M39A2 Revolver 20 mm, với 280 viên đạn trên mỗi khẩu pháo và có thể mang theo nhiều loại rocket khác nhau, tên lửa Sidewinder, Maverick và loạt bom Mark.
Tiếp theo là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-15, một thiết kế của Liên Xô. MiG-15 là một trong những dòng máy bay chiến đấu phản lực nổi tiếng nhất mọi thời đại của Liên Xô và cũng là một trong những máy bay chiến đấu phản lực được sản xuất nhiều nhất với hơn 13.000 chiếc.
MiG-15 được sử dụng nhiều nhất trong chiến tranh Triều Tiên, nhưng MiG-15 chỉ được sử dụng cho mục đích đào tạo, huấn luyện trong thời gian kháng chiến chống Mỹ và không được sử dụng trong chiến đấu.
MiG-15 có chiều dài 11m, có thể đạt tốc độ tối đa hơn 1.000 km/h, máy bay được trang bị hai khẩu pháo tự động 23 mm Nudelman-Rikhter NR-23, với 80 viên đạn mỗi khẩu, và pháo tự động 37 mm Nudelman N-37 với 40 viên đạn.
Tiếp theo là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-17. Chiếc MiG này đã bổ sung thêm tốc độ và hỏa lực cho Không quân Nhân dân Việt Nam ngay từ đầu cuộc chiến. MiG-17 đã tham gia vào các cuộc đối đầu với máy bay của không quân Mỹ những năm đầu đến giữa những năm 60.
Các máy bay MiG-17 đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa, ngăn chặn mọi nỗ lực tấn công cầu của máy bay F-105 và duy trì quyền kiểm soát của Không quân Nhân dân Việt Nam trên bầu trời miền Bắc Việt Nam.
MiG-17 dài 12m, có thể đạt tốc độ tối đa hơn 1.000 km/h, phạm vi hoạt động hơn 2.000 km và được trang bị hai pháo tự động Nudelman-Rikhter NR-23 23 mm, 80 viên đạn mỗi khẩu, một pháo tự động Nudelman N-37 37 mm, bệ rocket UB-16-57 và bom.
Tiếp theo là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-19. Là chiếc máy bay siêu thanh được bổ sung kịp thời của Liên Xô, nhằm tăng cường khả năng phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, MiG-19 có tầm bay rất ngắn, khó có thể theo kịp máy bay F-4 Phantom II của Mỹ.
MiG-19 có chiều dài 14m, có thể đạt tốc độ tối đa khi được trang bị động cơ phản lực đốt sau Tumansky RD-9B và được trang bị pháo tự động 30 mm Nudelman-Rikhter NR-30, 2 ống phóng rocket ORO-57K hoặc FAB-250.
Cuối cùng là máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-21, đây là sự thay thế hoàn hảo cho MiG-19 thường bị đánh giá là lép vế trước F-4 Phantom. MiG-21 hiệu quả hơn trong việc hạ gục máy bay F-105 Thunderchief và trong các trận chiến với F-4 Phantom.
MiG-21 có chiều dài 16m, được trang bị động cơ phản lực đốt sau Tumansky R-25-300 cung cấp năng lượng cho máy bay phản lực đạt tốc độ 2.100 km/h. MiG-21 được trang bị pháo tự động 23 mm Gryazev-Shipunov GSh-23L, 4 rocket tên lửa UB-16-57, tên lửa không đối không K-13, R-55, R-60 và bom. Nguồn ảnh: Pinterest.