Trước hết là phải dựa trên đối tượng mục tiêu và bản thân các tàu chiến trong thế kỷ 20. Các đối tượng này thường có kích thước hoặc quy mô rất lớn, khiến cho việc bắn chìm chúng chỉ trong một hoặc một vài phát đạn đơn thuần gần như là bất khả thi, nên các tàu chiến thường phải tối đa hóa lượng hỏa lực thông qua việc bố trí nhiều tháp pháo trên tàu.Một ví dụ tiêu biểu cho sự “lỳ đòn” là chiếc SMS Seydlitz của Hải quân Đế quốc Đức trong trận Jutland ở Thế chiến 1, dù đã trúng 21 phát đạn các loại (trong đó trúng trực diện ít nhất 2 viên đạn cỡ 380mm từ tàu thuộc lớp Nữ hoàng Elizabeth) và một quả ngư lôi ở sườn, khiến hơn 100 thủy thủ thiệt mạng, nhưng con tàu vẫn chạy được về cảng để khắc phục thiệt hại và ra trận lại vào tháng 11 trong năm.Một lý do nữa là khoảng cách tác chiến của tàu chiến hạm đội nước xanh. Khoảng cách này là rất lớn, có thể lên đến 35km. Vì vậy thường thì các tàu chiến sẽ bắn gián tiếp với đường đạn có dạng cầu vồng với độ cong lớn để có thể tác chiến ở khoảng cách này.Tuy nhiên phương pháp bắn này thường rất kém chính xác, nhất là trong điều kiện đối tượng mục tiêu di động, do đó việc gia tăng mật độ hỏa lực để bù lại cho khả năng chính xác là rất cần thiết, vì vậy các tàu chiến thường có nhiều tháp pháo.Bên cạnh đó thì thường tàu chiến cũng sẽ phải hiệu chỉnh bắn thường xuyên để đo lại khoảng cách (vì trong thời kỳ này chủ yếu là ngắm và tính toán thủ công nên độ chính xác phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người lính), do đó nhiều pháo hơn sẽ có thể phản ứng được nhanh hơn nếu khoảng cách đó bị tính sai.Tổng kết lại thì việc thiết kế nhiều tháp pháo và nhiều pháo mỗi tháp của tàu chiến có thể tóm tắt lại như sau: Nhiều pháo để tăng mật độ đạn vào đối phương, tăng tỉ lệ trúng và khả năng tiêu diệt đối phương cũng như kiểm tra khoảng cách trước khi bắn.Còn xét về các phương tiện thiết giáp, tại sao chúng thường không có thiết kế nhiều pháo hay nhiều tháp pháo như tàu chiến? Vì trên bộ các phương tiện đều bị giới hạn rất nhiều về khối lượng và kích thước để có thể tác chiến hiệu quả cũng như có thể đi qua được cầu hay có thể thể tác chiến trong rừng và đô thị.Thiết kế nhiều tháp pháo hay nhiều pháo như tàu chiến sẽ khiến xe có kích thước rất lớn, để bù cho khối lượng bị giới hạn thì hoặc hỏa lực hoặc giáp của xe sẽ bị giảm đi rất nhiều, do đó độ hiệu quả để bù lại kích thước quá khổ này không hoàn toàn xứng đáng.Tiếp theo là xét về khoảng cách tác chiến của xe tăng, khoảng cách này thường tối đa chỉ tầm 2km. Do đó các vấn đề về chính xác không ảnh hưởng quá nhiều nên không cần phải lấy mật độ hỏa lực để bù vào như bên tàu chiến. Bên cạnh đó thì việc lắp nhiều pháo lên xe tăng cũng làm ảnh hưởng cực lớn đến độ chính xác và độ bền của xe tăng.Nếu một pháo nhỏ không đủ sát thương lên mục tiêu thì dù có bắn nhiều pháo nhỏ nó cũng không tạo ra sự khác biệt quá lớn. Thay vào đó dùng một pháo duy nhất nhưng to hơn thì lại tạo sự khác biệt rất nhiều.Một ví dụ tiêu biểu là dự án KV-7-2 được trang bị 2 pháo F-34 76.2mm, nhưng vì thiết kế này tỏ ra không hiệu quả nên ban thiết kế quyết định thay bằng khẩu pháo cỡ nòng 152.4mm và được đổi tên thành KV-7 U-18, tiền thân của SU-152.Nhiều tháp pháo và pháo trên xe tăng sẽ làm quá tải chỉ huy (đối với thiết kế nhiều tháp pháo) hoặc quá tải cho người nạp đạn (đối với thiết kế nhiều pháo một tháp), khiến hiệu quả tác chiến lâu dài không cao và còn có thể bị giảm sút nhanh chóng do phải chỉ huy hoặc phải phụ trách quá so với khả năng.Thêm vào đó thì thiết kế này khiến xe tăng trở nên phức tạp không cần thiết, ảnh hưởng nhiều đến khả năng sửa chữa và bảo hành, nhất là đối với số lượng lớn như xe tăng. Bên cạnh đó thì kích thước lớn của thiết kế này khiến các phương tiện dễ phải chịu nhiều thiệt hại hơn từ các xe đối phương vì to hơn nên dễ bị bắn trúng vào hơn.Về các đối tượng mục tiêu của xe tăng cũng không giống như mục tiêu của tàu chiến. Các mục tiêu này thường không trụ được quá một đến hai phát bắn nên việc gia tăng số lượng đạn vào mục tiêu cũng không cần thiết nữa.Nếu nói về việc tăng tốc độ phản ứng khi bắn hụt phát đầu thì thực tế mỗi phát bắn, pháo rất rung và sẽ tốn một khoảng thời gian khá nhiều để xạ thủ ổn định pháo và tan khói đầu nòng cho ống ngắm. Cái này có lẽ cũng không nhanh hơn thời gian nạp một viên mới vào pháo là mấy.Cuối cùng lại nói về các đối tượng mục tiêu. Để chống bộ binh thì thay vì nhiều pháo, xe tăng sẽ chọn súng máy cho vai trò này vì súng máy có hiệu quả sát thương đối với các mục tiêu mềm như bộ binh hơn so với pháo.Các mục tiêu công sự thì nhiều pháo bé cũng không hiệu quả, thay vào đó thì chỉ cần một nòng pháo cỡ lớn thì hiệu quả hơn nhiều. Tóm lại, xe tăng thường không có thiết kế như tàu chiến vì thiết kế này thừa thải và kém hiệu quả đối với các phương tiện chiến đấu trên bộ. Thậm chí nó còn đội chi phí và thời gian cho việc chế tạo, sửa chữa và bảo trì cho các phương tiện ngay trên chiến trường.
Trước hết là phải dựa trên đối tượng mục tiêu và bản thân các tàu chiến trong thế kỷ 20. Các đối tượng này thường có kích thước hoặc quy mô rất lớn, khiến cho việc bắn chìm chúng chỉ trong một hoặc một vài phát đạn đơn thuần gần như là bất khả thi, nên các tàu chiến thường phải tối đa hóa lượng hỏa lực thông qua việc bố trí nhiều tháp pháo trên tàu.
Một ví dụ tiêu biểu cho sự “lỳ đòn” là chiếc SMS Seydlitz của Hải quân Đế quốc Đức trong trận Jutland ở Thế chiến 1, dù đã trúng 21 phát đạn các loại (trong đó trúng trực diện ít nhất 2 viên đạn cỡ 380mm từ tàu thuộc lớp Nữ hoàng Elizabeth) và một quả ngư lôi ở sườn, khiến hơn 100 thủy thủ thiệt mạng, nhưng con tàu vẫn chạy được về cảng để khắc phục thiệt hại và ra trận lại vào tháng 11 trong năm.
Một lý do nữa là khoảng cách tác chiến của tàu chiến hạm đội nước xanh. Khoảng cách này là rất lớn, có thể lên đến 35km. Vì vậy thường thì các tàu chiến sẽ bắn gián tiếp với đường đạn có dạng cầu vồng với độ cong lớn để có thể tác chiến ở khoảng cách này.
Tuy nhiên phương pháp bắn này thường rất kém chính xác, nhất là trong điều kiện đối tượng mục tiêu di động, do đó việc gia tăng mật độ hỏa lực để bù lại cho khả năng chính xác là rất cần thiết, vì vậy các tàu chiến thường có nhiều tháp pháo.
Bên cạnh đó thì thường tàu chiến cũng sẽ phải hiệu chỉnh bắn thường xuyên để đo lại khoảng cách (vì trong thời kỳ này chủ yếu là ngắm và tính toán thủ công nên độ chính xác phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người lính), do đó nhiều pháo hơn sẽ có thể phản ứng được nhanh hơn nếu khoảng cách đó bị tính sai.
Tổng kết lại thì việc thiết kế nhiều tháp pháo và nhiều pháo mỗi tháp của tàu chiến có thể tóm tắt lại như sau: Nhiều pháo để tăng mật độ đạn vào đối phương, tăng tỉ lệ trúng và khả năng tiêu diệt đối phương cũng như kiểm tra khoảng cách trước khi bắn.
Còn xét về các phương tiện thiết giáp, tại sao chúng thường không có thiết kế nhiều pháo hay nhiều tháp pháo như tàu chiến? Vì trên bộ các phương tiện đều bị giới hạn rất nhiều về khối lượng và kích thước để có thể tác chiến hiệu quả cũng như có thể đi qua được cầu hay có thể thể tác chiến trong rừng và đô thị.
Thiết kế nhiều tháp pháo hay nhiều pháo như tàu chiến sẽ khiến xe có kích thước rất lớn, để bù cho khối lượng bị giới hạn thì hoặc hỏa lực hoặc giáp của xe sẽ bị giảm đi rất nhiều, do đó độ hiệu quả để bù lại kích thước quá khổ này không hoàn toàn xứng đáng.
Tiếp theo là xét về khoảng cách tác chiến của xe tăng, khoảng cách này thường tối đa chỉ tầm 2km. Do đó các vấn đề về chính xác không ảnh hưởng quá nhiều nên không cần phải lấy mật độ hỏa lực để bù vào như bên tàu chiến. Bên cạnh đó thì việc lắp nhiều pháo lên xe tăng cũng làm ảnh hưởng cực lớn đến độ chính xác và độ bền của xe tăng.
Nếu một pháo nhỏ không đủ sát thương lên mục tiêu thì dù có bắn nhiều pháo nhỏ nó cũng không tạo ra sự khác biệt quá lớn. Thay vào đó dùng một pháo duy nhất nhưng to hơn thì lại tạo sự khác biệt rất nhiều.
Một ví dụ tiêu biểu là dự án KV-7-2 được trang bị 2 pháo F-34 76.2mm, nhưng vì thiết kế này tỏ ra không hiệu quả nên ban thiết kế quyết định thay bằng khẩu pháo cỡ nòng 152.4mm và được đổi tên thành KV-7 U-18, tiền thân của SU-152.
Nhiều tháp pháo và pháo trên xe tăng sẽ làm quá tải chỉ huy (đối với thiết kế nhiều tháp pháo) hoặc quá tải cho người nạp đạn (đối với thiết kế nhiều pháo một tháp), khiến hiệu quả tác chiến lâu dài không cao và còn có thể bị giảm sút nhanh chóng do phải chỉ huy hoặc phải phụ trách quá so với khả năng.
Thêm vào đó thì thiết kế này khiến xe tăng trở nên phức tạp không cần thiết, ảnh hưởng nhiều đến khả năng sửa chữa và bảo hành, nhất là đối với số lượng lớn như xe tăng. Bên cạnh đó thì kích thước lớn của thiết kế này khiến các phương tiện dễ phải chịu nhiều thiệt hại hơn từ các xe đối phương vì to hơn nên dễ bị bắn trúng vào hơn.
Về các đối tượng mục tiêu của xe tăng cũng không giống như mục tiêu của tàu chiến. Các mục tiêu này thường không trụ được quá một đến hai phát bắn nên việc gia tăng số lượng đạn vào mục tiêu cũng không cần thiết nữa.
Nếu nói về việc tăng tốc độ phản ứng khi bắn hụt phát đầu thì thực tế mỗi phát bắn, pháo rất rung và sẽ tốn một khoảng thời gian khá nhiều để xạ thủ ổn định pháo và tan khói đầu nòng cho ống ngắm. Cái này có lẽ cũng không nhanh hơn thời gian nạp một viên mới vào pháo là mấy.
Cuối cùng lại nói về các đối tượng mục tiêu. Để chống bộ binh thì thay vì nhiều pháo, xe tăng sẽ chọn súng máy cho vai trò này vì súng máy có hiệu quả sát thương đối với các mục tiêu mềm như bộ binh hơn so với pháo.
Các mục tiêu công sự thì nhiều pháo bé cũng không hiệu quả, thay vào đó thì chỉ cần một nòng pháo cỡ lớn thì hiệu quả hơn nhiều. Tóm lại, xe tăng thường không có thiết kế như tàu chiến vì thiết kế này thừa thải và kém hiệu quả đối với các phương tiện chiến đấu trên bộ. Thậm chí nó còn đội chi phí và thời gian cho việc chế tạo, sửa chữa và bảo trì cho các phương tiện ngay trên chiến trường.