Nghiên cứu mới: Nhật Bản phát triển gan thu nhỏ từ tế bào iPS

Nhóm nghiên cứu ở Nhật Bản đã phát triển gan thu nhỏ từ tế bào iPS, hy vọng rằng công nghệ sản xuất gan organoid có thể được ứng dụng để phát triển các thiết bị gan nhân tạo.

Theo TTXVN, một nhóm nghiên cứu tại Đại học Osaka Nhật Bản đã trở thành nhóm đầu tiên trên thế giới tạo ra được gan thu nhỏ tinh vi từ tế bào gốc đa năng cảm ứng của con người (iPS).
Những lá gan tí hon này, được gọi là gan organoid (liver organoids), mỗi lá gan có kích thước khoảng 0,5 mm, có thể hoạt động tương đương như gan của trẻ sơ sinh. Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng các organoid này có thể được sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân mắc bệnh gan giai đoạn cuối.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên ấn bản trực tuyến của tạp chí Nature của Anh vào ngày 17/4.
Nghien cuu moi: Nhat Ban phat trien gan thu nho tu te bao iPS
 Giáo sư Takanori Takebe. Ảnh: NYSCF.
Gan là cơ quan có cấu trúc rất phức tạp, với từng vùng đảm nhiệm các chức năng riêng như tổng hợp, phân giải đường và chất béo, khiến việc tái tạo gan từ tế bào iPS trở nên vô cùng khó khăn.
Để tạo ra các cơ quan nội tạng này, nhóm nghiên cứu - gồm có Giáo sư Takanori Takebe thuộc Trường cao học Y khoa của đại học Osaka - đã quyết định sử dụng bilirubin - chất được sản sinh ra khi các tế bào hồng cầu bị phân hủy và vitamin C vì cả hai chất này đều kiểm soát chức năng gan.
Khi các tế bào iPS và hai chất này được đưa vào một hộp chứa trong điều kiện nhất định và nuôi cấy, mô gan có cấu trúc phức tạp khoảng 0,5 mm đã được hình thành.
Trong các thí nghiệm trên chuột bị suy gan nặng, hơn 50% số chuột được cấy ghép hàng nghìn mô gan organoid vẫn sống sau 30 ngày, cao hơn nhiều so với tỷ lệ sống sót dưới 30% ở những con chuột không được điều trị như vậy.
Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng công nghệ sản xuất gan organoid có thể được ứng dụng để phát triển các thiết bị gan nhân tạo, chẳng hạn như dùng cho lọc máu thay thế chức năng gan.
Với kết quả này, Giáo sư Takebe cho biết, việc điều trị bằng organoid đã trở nên khá thực tế.
Trước đó, Nhật Bản đã thành công trong thử nghiệm lâm sàng phương pháp đưa tế bào gan được tạo ra từ tế bào gốc phôi (ES) để điều trị cho một bệnh nhi sơ sinh mắc bệnh về gan.

Nghiên cứu mới: Bệnh tiểu đường loại 2 nguy cơ mắc u gan, tuỵ

Nghiên cứu cho thấy những người mắc bệnh tiểu đường loại 2 có nguy cơ mắc một số loại ung thư nguy hiểm nhất, bao gồm khối u gan và tuyến tụy, trong đó phụ nữ là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao nhất.

Một nghiên cứu mới đây của Giáo sư Andrew Renehan từ Đại học Manchester (Anh) cho thấy, những người mắc tiểu đường type 2, đặc biệt là phụ nữ, có nguy cơ cao mắc một số loại ung thư nguy hiểm, bao gồm ung thư gan và ung thư tuyến tụy.
Phân tích dữ liệu sức khỏe của 95.000 người cho thấy, phụ nữ mắc tiểu đường type 2 có nguy cơ ung thư tuyến tụy gần như tăng gấp đôi, trong khi nguy cơ ung thư gan cao hơn gần 5 lần.
Ở nam giới, nguy cơ ung thư tuyến tụy tăng 74% và nguy cơ ung thư gan cao gấp gần 4 lần trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán tiểu đường.
Bên cạnh đó, nguy cơ mắc ung thư ruột cũng có sự gia tăng đáng kể, với tỷ lệ cao hơn 34% ở phụ nữ và 27% ở nam giới so với những người không mắc bệnh tiểu đường.
Owen Tipping, một nhà nghiên cứu y khoa tham gia vào dự án cùng Giáo sư Andrew Renehan từ Đại học Manchester (Anh), cho biết: "Bệnh tiểu đường và béo phì có liên quan đến các loại ung thư tương tự nhau. Nghiên cứu của chúng tôi đã xác định tác động riêng biệt của bệnh tiểu đường đối với nguy cơ ung thư, ngay cả khi đã loại trừ yếu tố béo phì".
Nghien cuu moi: Benh tieu duong loai 2 nguy co mac u gan, tuy
Những phụ nữ mới được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường loại 2 có nguy cơ phát triển một số khối u nguy hiểm/ Nguồn PNO
Các nghiên cứu trước đây đã liên kết béo phì với 13 loại ung thư, nhiều loại trong số đó cũng phổ biến hơn ở những người mắc bệnh tiểu đường type 2. Nhưng các nhà nghiên cứu đã phải phân tích sâu hơn để tìm ra rằng, liệu bản thân bệnh tiểu đường có làm tăng nguy cơ mắc một số hoặc tất cả các loại ung thư hay không.
Họ nhận thấy có xu hướng gia tăng các ca chẩn đoán ung thư ngay sau khi phát hiện bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, đơn giản là vì bệnh nhân có nhiều xét nghiệm y tế hơn.
Theo nghiên cứu, sau 5 năm, nguy cơ mắc bất kỳ loại ung thư nào liên quan đến béo phì cao hơn 48% đối với nam giới mới được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường type 2 so với những người không mắc bệnh này. Đối với phụ nữ, nguy cơ cao hơn 24% ở những người mới được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường.
Tuy nhiên, không phải tất cả các loại ung thư liên quan đến béo phì đều tăng lên cùng với bệnh tiểu đường.
Hiện vẫn chưa rõ bệnh tiểu đường có thể gây ra ung thư như thế nào, nhưng các nhà khoa học nghi ngờ do mức insulin cao, lượng đường trong máu cao và tình trạng viêm mãn tính. Sự khác biệt về giới tính có thể do mức độ hormone, mức độ nhạy cảm của cơ thể với tác động của insulin hoặc sự thay đổi về mỡ cơ thể.

Nghiên cứu mới về điều trị hội chứng hậu COVID

Một nghiên cứu mới tại Đại học Derby đang mang lại hy vọng cho hàng triệu bệnh nhân hậu COVID, với những tín hiệu tích cực từ việc sử dụng thuốc kháng virus.

Theo VTV, 5 năm sau đại dịch COVID-19, khoảng 1,9 triệu người tại Vương quốc Anh, tương đương gần 3% dân số, vẫn vật lộn với hội chứng hậu COVID. Mặc dù chưa có phương pháp điều trị rõ ràng, một nghiên cứu mới tại Đại học Derby đang mang lại hy vọng cho những bệnh nhân mắc hội chứng này.
Chị Becky Steed, một bác sĩ từng trực tiếp điều trị cho bệnh nhân COVID-19, hiện cũng đang chịu ảnh hưởng nặng nề của hậu COVID. Do các triệu chứng nghiêm trọng, chị không thể tiếp tục công việc bác sĩ mà chỉ có thể tham gia đào tạo nhân viên y tế trong khi đang nằm.

Nghiên cứu mới: Đột phá trong lĩnh vực giao tiếp thần kinh

Các nhà khoa học Mỹ vừa phát triển một thiết bị có khả năng chuyển đổi suy nghĩ thành lời nói theo thời gian thực, bước tiến quan trọng trong nghiên cứu giao diện não - máy tính.

Một nhóm nhà khoa học tại California (Mỹ) vừa công bố kết quả đột phá trong lĩnh vực giao tiếp thần kinh: Một thiết bị cấy ghép não có thể giải mã suy nghĩ và chuyển đổi thành lời nói gần như tức thì.
Thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những bệnh nhân bị liệt hoặc mất khả năng nói do chấn thương hay đột quỵ.
Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Neuroscience, các nhà khoa học đã thử nghiệm thành công thiết bị này đối với Ann - một bệnh nhân nữ 47 tuổi, bị liệt tứ chi và không thể nói trong suốt 18 năm qua sau một cơn đột quỵ. Nhờ công nghệ mới, Ann có thể “nói” trở lại thông qua một hệ thống máy tính xử lý tín hiệu não bộ.
Nghien cuu moi: Dot pha trong linh vuc giao tiep than kinh
Ảnh minh họa: AI 
Các nghiên cứu trước đây đã phát triển những hệ thống giao tiếp não - máy tính (BCI), nhưng chúng có độ trễ khoảng 8 giây giữa suy nghĩ và lời nói được phát ra, gây gián đoạn hội thoại. Tuy nhiên, công nghệ mới của nhóm nghiên cứu đã cải thiện đáng kể tốc độ xử lý, giúp lời nói của Ann được xử lý chỉ trong khoảng 80 mili giây - tương đương 1/2 âm tiết.
Ông Gopala Anumanchipalli - tác giả chính của nghiên cứu, làm việc tại Đại học California chia sẻ: "Chúng tôi đã có thể chuyển đổi tín hiệu não của cô ấy thành giọng nói cá nhân hóa trong thời gian thực, chỉ trong vòng 1 giây sau khi cô ấy có ý định nói".
Để phát triển hệ thống này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng một loạt điện cực cấy trên vùng não kiểm soát ngôn ngữ của Ann. Khi cô nghĩ về một câu nói, các điện cực thu thập tín hiệu thần kinh và truyền đến một mô hình AI. AI sau đó giải mã các tín hiệu này và chuyển thành các đơn vị âm thanh, tạo thành câu hoàn chỉnh với giọng nói được phục dựng từ những đoạn ghi âm của Ann trước khi cô mất khả năng nói.
Ông Anumanchipalli giải thích: "Hệ thống này không chờ đến khi hoàn thành cả câu mới xử lý, mà liên tục dịch từng phần nhỏ của lời nói, giống như cách các hệ thống nhận diện giọng nói thời gian thực hoạt động".
Kết quả nghiên cứu đã tạo ra sự phấn khích lớn trong giới khoa học. Giáo sư Patrick Degenaar, chuyên gia về thần kinh học tại Đại học Newcastle (Anh), nhận định đây là "bước tiến quan trọng trong lĩnh vực giao tiếp thần kinh, mở ra tiềm năng to lớn cho các bệnh nhân mất giọng nói".
Đáng chú ý, công nghệ này sử dụng một hệ thống điện cực không xâm lấn quá sâu vào não, giúp giảm thiểu rủi ro so với các phương pháp cấy ghép khác. Việc cấy ghép các điện cực này hiện là một quy trình phổ biến trong điều trị bệnh động kinh, giúp công nghệ này có thể được triển khai rộng rãi trong tương lai.
Ann cũng chia sẻ niềm hạnh phúc khi được "nghe lại giọng nói của chính mình" sau gần hai thập kỷ phải câm lặng. Cô cho biết: "Tôi rất háo hức với khả năng có thể trò chuyện lại với mọi người mà không cần dùng đến bảng chữ cái hay máy tính đánh chữ".
Dù kết quả rất khả quan, nhưng công nghệ này vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm và cần được cải thiện thêm trước khi phổ biến rộng rãi. Hiện tại, hệ thống chỉ có thể nhận diện khoảng 1.024 từ - một con số còn hạn chế so với ngôn ngữ tự nhiên.
Với sự đầu tư tài chính đúng mức, ông Anumanchipalli dự đoán rằng công nghệ này có thể được đưa vào sử dụng thực tế trong vòng 5 - 10 năm tới, giúp hàng triệu người trên thế giới có thể lấy lại giọng nói và khả năng giao tiếp của mình.
Trước đó, một nghiên cứu công bố trên tạp chí The New England, một người đàn ông không có khả năng nói hoặc cử động có thể tạo ra các từ và câu trên máy tính chỉ bằng suy nghĩ, nhờ một thiết bị cấy ghép thử nghiệm mới giải mã các tín hiệu não hoạt động của đường thanh âm.
Nghiên cứu do nhóm của bác sĩ giải phẫu thần kinh Edward Chang, Đại học California (UCSF, Mỹ) đã xây dựng một giải pháp, nhằm mang lại một số khả năng giao tiếp cho người đàn ông được đặt tên mã là BRAVO1 (vì yêu cầu ẩn danh). Tên “mã” đề cập đến trạng thái đầy triển vọng của người này như là đối tượng đầu tiên trong số những đối tượng trong nghiên cứu có tên gọi BRAVO (giao diện Não - Máy tính Phục hồi cánh tay và giọng nói).

Nhóm nghiên cứu đã cấy cảm biến lên bề mặt não của BRAVO1. Sau đó, một máy tính được liên kết với cảm biến phân tích các mẫu trong hoạt động điện được tạo ra khi BRAVO1 cố gắng thốt ra 50 từ khác nhau.

Sau một thời gian, BRAVO1 học được cách tạo ra các từ trên màn hình máy tính một cách đáng tin cậy, vì vậy nhóm bắt đầu thực hiện thử thách mới đó là câu. Lúc đầu thiếu độ chính xác, vì vậy nhóm nghiên cứu thực hiện một chương trình mới được thiết kế để đánh giá ngữ cảnh của từng từ khi người đàn ông cố gắng nói. Theo một cách nào đó, nó không khác gì phần mềm nhắn tin trên điện thoại thông minh của bạn.

David Moses, kỹ sư tại phòng thí nghiệm của Chang, bình luận: “Đây là cột mốc công nghệ quan trọng đối với người không thể giao tiếp tự nhiên và nó cho thấy tiềm năng của phương pháp trong việc mang lại tiếng nói cho những người bị liệt nặng và mất khả năng nói”. Thử nghiệm này cũng mới chỉ là bước khởi đầu.

Đọc nhiều nhất

Vì sao nọng heo được ưa chuộng?

Vì sao nọng heo được ưa chuộng?

Nọng heo được ưa chuộng vì sự kết hợp độc đáo giữa vị ngọt của thịt nạc và béo ngậy của mỡ, tạo nên hương vị mềm mọng, giòn sật đặc trưng.

Tin mới

Vì sao nọng heo được ưa chuộng?

Vì sao nọng heo được ưa chuộng?

Nọng heo được ưa chuộng vì sự kết hợp độc đáo giữa vị ngọt của thịt nạc và béo ngậy của mỡ, tạo nên hương vị mềm mọng, giòn sật đặc trưng.