Trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô đã nhận được một số lượng tương đối vũ khí từ Mỹ và các nước thuộc phe Đồng Minh. Trong số đó có một số lượng lớn máy bay chiến đấu. Chỉ riêng Mỹ đã chuyển giao cho Không quân Liên Xô cả thảy 11. 400 máy bay (trong đó có 4.719 máy bay P-39 Airacobras).Theo historynet, máy bay Mỹ được các phi công Liên Xô sử dụng rất tốt mặc dù các máy bay này không phổ biến với họ bằng các phi công phương Tây. Một trường hợp điển hình là chiếc Bell P-39 Aircobra, đã gắn liền với phi công Aleksandar I. Porkryshkin – nguyên soái tương lai của Không quân Liên Xô.Theo Historyofwar, trong 6 phi công đạt hạng ách (ace) hàng đầu của Liên Xô thời CTTG 2 thì có đến bốn người lập chiến công chủ yếu với chiếc P-39.Chiếc P-39 được trang bị một pháo 37mm ở mũi. Máy bay đạt vận tốc cao nhất là 580 km/h ở độ cao lớn và lên được độ cao 6.100m trong vòng 6 phút.Một chiếc máy bay khác đã được Không quân Liên Xô sử dụng rất thành công là Bell P-63 Kingcobra. Đây là chiếc máy bay được phát triển để sửa chữa thiếu sót của chiếc P-39 nhưng nó đã không được Không quân Mỹ chấp nhận để chiến đấu.Tổng cộng có 2.397 chiếc P-63 đã được chuyển cho Liên Xô trong số 3.303 chiếc được sản xuất.Loại máy bay với số lượng lớn thứ ba mà Không quân Liên Xô nhận được từ Đồng Minh là Hawker Hurricane. Tổng cộng có gần 3.000 chiếc loại này được Anh và Canada chuyển cho Liên Xô.Các máy bay loại này có vận tốc tối đa 529 km/h, tốc độ lên cao 838m/ phút và trần bay 9.800m.Nó được trang bị 4 khẩu pháo cỡ nòng 20mm loại Hispano hoặc Oerlikon hay đôi khi là 4 súng máy cỡ 12,7mm.Sau P-39 và P-63, các máy bay P-40 cũng được Mỹ chuyển cho Không quân Liên Xô với khối lượng lớn. Theo website Lend-lease.airforce, kể từ năm 1941 đến 1945, Mỹ đã chuyển cho Liên Xô 247 chiếc P-40C và 2178 P-40E.Các máy bay P-40 đã chiến đấu từ mặt trận Biển Đen tới biển Barents. Một điều ít được biết đến là P-40 đã tham gia tất cả các trận đánh quyết định như: Trận Moscow, Stalingrad, Leningrad, vòng cung Kursk cho đến chiến dịch giải phóng Đông Phổ.P-40 là loại máy bay tấn công mặt đất, một động cơ, một chỗ ngồi với cấu trúc toàn kim loại. Máy bay đạt vận tốc tối đa 580 km/h với tầm bay tối đa 1.100 km. Máy bay này không có pháo, chỉ được trang bị 6 súng máy Browning M2 cỡ nòng 12,7mm với cơ số đạn 281 viên mỗi khẩu. Ngoài ra có thể mang 680 kg bom gắn trên 3 giá treo.Một loại máy bay nữa mà Liên Xô đã nhận được từ các nước Đồng Minh trong CTTG 2 là Douglas A-20 Havoc. Đến cuối chiến tranh đã có tổng số 3.414 chiếc A-20 được chuyển giao cho Không quân Liên Xô.Đây là một máy bay tấn công, ném bom hạng nhẹ do Mỹ chế tạo. Nó được trang bị ba súng máy cỡ nòng 12,7mm và súng máy Browning cố định trong mũi cùng hai súng máy Browning cỡ 7,7mm linh hoạt. Ngoài ra nó cũng có thể mang được 910 kg bom.Tuy vậy, Liên Xô đã không hài lòng với bốn khẩu súng máy Browning với tốc độ bắn chỉ 600 viên/phút. Thay vào đó họ đã sử dụng súng máy ShKAS cỡ 7,62mm nhưng tốc độ bắn lên đến 1.800 viên/phút.Tính chung trong cả cuộc chiến, Không quân Liên Xô đã nhận được 18.700 máy bay từ các nước Đồng Minh, chiếm tới 14% sản lượng máy bay của họ (với máy bay quân sự, tỉ lệ này lên tới 19%). Các máy bay của Đồng Minh đã được phi công Liên Xô sử dụng hiệu quả làm nên chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc và chống Chủ nghĩa Phát xít.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô đã nhận được một số lượng tương đối vũ khí từ Mỹ và các nước thuộc phe Đồng Minh. Trong số đó có một số lượng lớn máy bay chiến đấu. Chỉ riêng Mỹ đã chuyển giao cho Không quân Liên Xô cả thảy 11. 400 máy bay (trong đó có 4.719 máy bay P-39 Airacobras).
Theo historynet, máy bay Mỹ được các phi công Liên Xô sử dụng rất tốt mặc dù các máy bay này không phổ biến với họ bằng các phi công phương Tây. Một trường hợp điển hình là chiếc Bell P-39 Aircobra, đã gắn liền với phi công Aleksandar I. Porkryshkin – nguyên soái tương lai của Không quân Liên Xô.
Theo Historyofwar, trong 6 phi công đạt hạng ách (ace) hàng đầu của Liên Xô thời CTTG 2 thì có đến bốn người lập chiến công chủ yếu với chiếc P-39.
Chiếc P-39 được trang bị một pháo 37mm ở mũi. Máy bay đạt vận tốc cao nhất là 580 km/h ở độ cao lớn và lên được độ cao 6.100m trong vòng 6 phút.
Một chiếc máy bay khác đã được Không quân Liên Xô sử dụng rất thành công là Bell P-63 Kingcobra. Đây là chiếc máy bay được phát triển để sửa chữa thiếu sót của chiếc P-39 nhưng nó đã không được Không quân Mỹ chấp nhận để chiến đấu.
Tổng cộng có 2.397 chiếc P-63 đã được chuyển cho Liên Xô trong số 3.303 chiếc được sản xuất.
Loại máy bay với số lượng lớn thứ ba mà Không quân Liên Xô nhận được từ Đồng Minh là Hawker Hurricane. Tổng cộng có gần 3.000 chiếc loại này được Anh và Canada chuyển cho Liên Xô.
Các máy bay loại này có vận tốc tối đa 529 km/h, tốc độ lên cao 838m/ phút và trần bay 9.800m.
Nó được trang bị 4 khẩu pháo cỡ nòng 20mm loại Hispano hoặc Oerlikon hay đôi khi là 4 súng máy cỡ 12,7mm.
Sau P-39 và P-63, các máy bay P-40 cũng được Mỹ chuyển cho Không quân Liên Xô với khối lượng lớn. Theo website Lend-lease.airforce, kể từ năm 1941 đến 1945, Mỹ đã chuyển cho Liên Xô 247 chiếc P-40C và 2178 P-40E.
Các máy bay P-40 đã chiến đấu từ mặt trận Biển Đen tới biển Barents. Một điều ít được biết đến là P-40 đã tham gia tất cả các trận đánh quyết định như: Trận Moscow, Stalingrad, Leningrad, vòng cung Kursk cho đến chiến dịch giải phóng Đông Phổ.
P-40 là loại máy bay tấn công mặt đất, một động cơ, một chỗ ngồi với cấu trúc toàn kim loại. Máy bay đạt vận tốc tối đa 580 km/h với tầm bay tối đa 1.100 km. Máy bay này không có pháo, chỉ được trang bị 6 súng máy Browning M2 cỡ nòng 12,7mm với cơ số đạn 281 viên mỗi khẩu. Ngoài ra có thể mang 680 kg bom gắn trên 3 giá treo.
Một loại máy bay nữa mà Liên Xô đã nhận được từ các nước Đồng Minh trong CTTG 2 là Douglas A-20 Havoc. Đến cuối chiến tranh đã có tổng số 3.414 chiếc A-20 được chuyển giao cho Không quân Liên Xô.
Đây là một máy bay tấn công, ném bom hạng nhẹ do Mỹ chế tạo. Nó được trang bị ba súng máy cỡ nòng 12,7mm và súng máy Browning cố định trong mũi cùng hai súng máy Browning cỡ 7,7mm linh hoạt. Ngoài ra nó cũng có thể mang được 910 kg bom.
Tuy vậy, Liên Xô đã không hài lòng với bốn khẩu súng máy Browning với tốc độ bắn chỉ 600 viên/phút. Thay vào đó họ đã sử dụng súng máy ShKAS cỡ 7,62mm nhưng tốc độ bắn lên đến 1.800 viên/phút.
Tính chung trong cả cuộc chiến, Không quân Liên Xô đã nhận được 18.700 máy bay từ các nước Đồng Minh, chiếm tới 14% sản lượng máy bay của họ (với máy bay quân sự, tỉ lệ này lên tới 19%). Các máy bay của Đồng Minh đã được phi công Liên Xô sử dụng hiệu quả làm nên chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc và chống Chủ nghĩa Phát xít.