Ông “Trạng non” hai lần đánh giặc bằng bút

Google News

(Kiến Thức) - Trong những Trạng nguyên của nước ta, Nguyễn Hiền là người đỗ đạt khi nhỏ tuổi nhất (13 tuổi) và cũng mất sớm nhất. Tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn ngủi vài năm làm quan, vị trạng nguyên này đã có những cống hiến để lại dấu ấn.



Khai quốc trạng nguyên

Lịch sử các kỳ thi tuyển chọn hiền tài đã bắt đầu từ đầu triều Lý. Tuy nhiên, danh hiệu Trạng nguyên chỉ chính thức xuất hiện từ khoa thi năm 1247, thời vua Trần Thái Tông. Trong khoa thi này, nét đặc biệt là cả 3 sĩ tử đỗ đầu đều là những người trẻ. Trạng nguyên Nguyễn Hiền mới có 13 tuổi, Bảng nhãn Lê Văn Hưu 18 tuổi và Thám hoa Đặng Ma La 14 tuổi. Vì vậy Trạng nguyên Nguyễn Hiền được coi là khai quốc trạng nguyên của nước ta.
 Đền thờ Trạng Hiền tại Nam Định.

Đỗ Trạng nguyên là một vinh dự rất lớn. Lệ thường là Vua sẽ ban mũ áo, cho đi ngựa dạo phố 3 ngày và cho người hộ tống về quê làm lễ vinh quy bái tổ. Tuy nhiên, trong kỳ thi 1247, một biến cố xảy ra đã khiến Trạng Hiền không được hưởng những lễ nghi đặc biệt đó.
Sử không chép năm mất của Nguyễn Hiền. Tuy nhiên, theo tài liệu ở di tích Trạng nguyên Nguyễn Hiền thì ông mất vào khoảng năm 1256 – 1257.

 Sau khi ông mất, huyện Thượng Hiền được đổi tên ra huyện Thượng Nguyên để tránh tên húy của ông. Đồng thời Vua Trần cũng lệnh cho dân quê ông lập đền thờ và phong ông là thượng đẳng thần. Ngày nay đền thờ Trạng nguyên nằm tại làng Dương A, Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định.



Theo lời kể của ông Nguyễn Minh Nguyên, hậu duệ đồng thời là trưởng tộc chi họ Nguyễn ở quê Trạng Hiền (làng Dương A, Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định), sau khi công bố kết quả thi, Trạng hiền cùng 2 vị Bảng nhãn, Thám hoa được vào cung yết kiến nhà vua. Tại triều đình, thấy Trạng nguyên còn nhỏ quá, vua Trần Thái Tông mới hỏi: “Trạng học ai?”. Trạng trả lời: “Tâu bệ hạ, thần sinh nhi tri chi, hữu nghi tắc vấn tăng nhất nhị tự”. Tạm dịch nghĩa là: “Thần sinh ra đã biết, có một đôi chữ không hiểu thì hỏi ông sư ở chùa làng”.

Nghe câu trả lời của Trạng, Trần Thái Tông cho là Trạng tự kiêu, không biết lễ phép nên hạ chỉ: “Trạng còn nhỏ tuổi chưa biết lễ nên cho về quê 3 năm để học lễ rồi sẽ bổ dụng”. Vậy là Trạng Hiền lại phải lủi thủi về quê mặc dù rõ ràng đã đỗ đầu. Ông Nguyễn Minh Nguyên bình luận: “Cụ lúc ấy còn ít tuổi cho nên có sao nói thế, thêm nữa là những người có tài thì thường hay ngang. Nhưng tôi cho là đúng bởi vì nếu không có tài năng thiên bẩm thì làm sao có thể học thông kinh sử để thi đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi. Hơn nữa, theo lưu truyền của dân chúng ở đây thì nhà Trạng gần chùa. Cụ sư trụ trì chùa có mở một lớp dạy học nhưng Trạng không theo học mà chỉ đứng nghe lỏm và được sư ông cho mượn sách đọc”.

Hai lần đánh giặc bằng bút

Không được bổ dụng, Trạng Hiền lại phải trở về quê. Tuy nhiên, thời gian này, ở phương Bắc, triều Tống đã đi đến hồi diệt vong, quân Mông Cổ đang đánh đến những mảnh đất cuối cùng của Trung Quốc và bắt đầu dòm ngó sang nước Nam ta. Sứ giả Mông Cổ qua lại nước ta thường xuyên hơn để dò la tin tức, thăm dò thực lực của ta cũng như đem theo các yêu sách quá đáng của Chúa Mông Cổ để đo phản ứng của triều đình nhà Trần.

Dựa theo gia phả và các lưu truyền từ thời cổ, ông Nguyễn Minh Nguyên cho biết: Một lần sứ giả Mông Cổ mang thư của triều đình họ sang nước ta. Trong thư chỉ có một bài thơ gồm 4 chữ là:

“Lưỡng nhật bình đầu nhật
Tứ sơn điên đảo sơn
Lưỡng vương tranh nhất quốc
Tứ khẩu tung hoành gian”

Ngoài bài thơ, bức thư không viết thêm chữ nào nữa khiến triều đình không hiểu được thông điệp. Trong lúc khó khăn, Trần Thái Tông nhớ đến Trạng Hiền bèn cho người về quê tìm. Sứ giả về làng tìm Trạng, đi đường gặp một thanh niên nằm ngửa bụng ở bên một cái cồn (gò đất nổi lên giữa cánh đồng). Thấy lạ sứ giả mới hỏi, người kia trả lời là ta đang phơi sách. Ông Nguyên nói thêm, hiện giờ ở đây vẫn có địa danh cồn Phơi sách. Có lẽ là liên quan đến sự tích này.
 Bàn thờ trong đền ghi bài thơ của sứ Mông Cổ mà Trạng giải mã được.

Khi sứ giả tìm được Trạng rồi liền truyền lệnh của vua Trần triệu Trạng về triều đình. Rất ngạc nhiên, Trạng đáp: “Nhà Vua trách ta chưa học lễ, nay thấy nhà vua cũng chưa giữ lễ, ta chưa thể về Triều”. Sứ giả về tâu lại, Vua giật mình nghĩ ra bèn sai mang mũ áo, cùng xe ngựa rước Trạng lên kinh.

Khi Trạng đã về kinh, nhà vua bèn mang thư của Mông Cổ cho Trạng xem để dịch thông điệp. Vừa lướt qua Trạng đã hiểu ngay nội dung. Toàn bộ 4 câu thơ của bài thơ chỉ miêu tả một chữ Điền. Hai chữ Nhật đặt cạnh nhau thì thành chữ Điền. Bốn chữ Sơn ở quay đầu vào nhau cũng thành chữ Điền. Hai chữ Vương đặt ngang dọc và chồng lên nhau là chữ Điền. 4 chữ Khẩu xếp lại thành 2 hàng ngang dọc cũng là chữ Điền. Trạng giải ra được nội dung khiến Triều đình giữ được quốc thể còn sứ Mông Cổ thì rất khâm phục. Người Mông Cổ biết nước Nam có người tài, chưa dễ gì đánh được.

Sau lần này, Vua Trần Thái Tông phong cho Trạng Hiền ngay chức Ngự sử đài kiêm đông các đại học sĩ Thượng thư bộ Công. Trạng được ở chức vụ vừa can gián nhà vua, giám sát quan lại vừa phụ trách việc xây dựng của triều đình, thể hiện sự tin tưởng của triều đình và cá nhân vua Thái Tông đối với Trạng.

Lại lần khác, sứ Mông Cổ mang sang bức thư chỉ có 2 chữ “Thanh Thúy”. Trạng Hiền đọc xong liền phê ngay vào thư là “Thập nhị nguyệt xuất tốt” và tâu vua Trần nên đưa quân ra biên giới phòng thủ vì tháng 12 giặc sẽ động binh. Nguyên chữ “thanh” gồm chữ thập, chữ nhị ở trên và chữ nguyệt ở dưới, chữ “thúy”gồm chữ xuất và chữ tốt ghép lại. Quân Mông Cổ đến đầu biên giới thấy ta đã có chuẩn bị nên lại rút quân về. “Thế là cụ tôi hai lần đánh giặc bằng bút. Tiếc là cụ mất sớm nên năm 1258 lúc Mông Cổ xâm  lược lần thứ nhất cụ không còn nếu không thì cụ còn cống hiến được nhiều cho đất nước” - Ông Nguyên tâm sự.

 Ông Nguyễn Minh Nguyên, hậu duệ của Trạng Hiền.

Cùng với các giai thoại đã kể trên, ông Phạm Xuân Hinh, phó ban quản lý di tích đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở xã Nam Trực nói rằng, chính Trạng Hiền là người đầu tiên đề xuất đắp đê quai vạc ở sông Hồng để chống lụt. Ông nói: “ Sống ở một vùng quê hạ lưu sông Hồng nên Trạng đã thấm thía cảnh lụt lội mất mùa nên khi được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Công, Trạng đã đề xuất với triều đình cho tổ chức nhân dân đắp đê quai vạc ở sông Hồng để chống lụt. Chắc thời đó cũng chỉ đắp được một vài đoạn thôi chứ không được toàn bộ đâu nhưng quan trọng phải ghi công cụ là người đầu tiên đề xuất và đứng ra phụ trách đốc thúc việc đắp đê để bảo vệ mùa màng”.

Ngoài ra người ta còn lưu truyền rất nhiều giai thoại khác về Trạng. Chẳng hạn chuyện Trạng nặn voi đất biết đi bằng cách cho 4 con cua vào chân, 2 con bướm làm tai và 1 con đỉa làm vòi. Hay những vế đối của Trạng với sứ giả. Những câu chuyện này ta thấy trùng với giai thoại về các danh nhân khác. Ngay như giai thoại Trạng giải nghĩa 2 chữ “Thanh thúy”, có tài liệu lại cho rằng đó là thư của quân Mạc gửi quân Trịnh và đã được Phùng Khắc Khoan giải mã. Vì tất cả các giai thoại đều không hề được chính sử nhắc tới cho nên giờ đây không thể xác định được nguyên gốc của ai. Dù sao Trạng Hiền là một nhân vật có thật với thành tích 13 tuổi đỗ Trạng nguyên quả là hiếm có trong lịch sử và là tấm gương để các thế hệ học sinh tự hào và học tập.

Trạng nguyên Nguyễn Hiền sinh năm 1235 tại làng Dương Miện, phủ Thượng Hiền, trấn Sơn Nam Hạ. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, cha mất sớm. Hai mẹ con Nguyễn Hiền ở trong một ngôi nhà nhỏ bên cạnh chùa làng. Sớm được tiếp xúc với môi trường học tập lại cộng với thiên tư tuyệt vời nên Nguyễn Hiền chỉ nghe lỏm mà cũng thông hiểu. Sư ông quý mến lại cho mượn sách vở nên chẳng bao lâu Nguyễn Hiền đã tiến bộ vượt bậc, giỏi hơn cả học sinh giỏi của trường và nổi tiếng thần đồng khắp vùng.

Năm 1247, khi mới 13 tuổi Nguyễn Hiền được người lớn dẫn lên kinh để thi và đã đỗ Trạng nguyên trong khoa thi đầu tiên đặt danh hiệu này, trở thành Khai quốc Trạng nguyên của Đại Việt.

TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU
Vũ Tiến Đức

Bình luận(0)