Tính cơ động và tốc độ của máy bay thế hệ 6 không phải là ưu tiên hàng đầu
Các nghiên cứu về máy bay chiến đấu thế hệ 6 của giới chuyên gia chỉ ra rằng, trong các cuộc không chiến tương lai, khi muốn tiêu diệt đối phương, quan trọng nhất phải là yếu tố bất ngờ.
Để đạt được mục đích đó, việc nâng cao khả năng nhận biết tình hình tác chiến sẽ là tính năng quan trọng nhất trên các máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6. Bởi vì, nếu so sánh về ưu thế tốc độ thì máy bay chiến đấu không bao giờ có thể vượt qua được các loại tên lửa tấn công tầm trung. Việc phát triển năng lực nhận biết tình hình tác chiến sẽ mang lại các ưu thế đó là:
|
Ý tưởng máy bay thế hệ 6 của Mỹ. Ảnh: Pinterest |
- Thứ nhất, sau khi có được ưu thế nhận biết tình hình, bên tấn công hoặc bên phòng ngự có thể làm tốt công tác chuẩn bị trước, ra đòn tập kích bất ngờ.
- Thứ hai, nhờ khả năng nhận biết trước được đối thủ mà có thể phát động tấn công ở cự li xa hơn.
- Thứ ba, cho dù tính năng cơ động của máy bay trong tương lai có cải thiện đến mấy cũng không thể so sánh được với tên lửa được. Tính năng cơ động của máy bay phụ thuộc vào kết cấu thân máy bay, còn khả năng chịu đựng tải của con người chỉ ở mức -4 đến +9G, trong khi đó tên lửa đánh chặn tầm gần có thể lượn vòng từ +35 đến +40G.
- Thứ tư, khả năng về hành trình bay với tốc độ siêu âm giúp cho máy bay nhanh chóng tới chiến trường, nhưng lượng tiêu hao dầu lại rất lớn, hành trình bay thường không bằng máy bay tốc độ cận âm. Ngoài ra khả năng bay với tốc độ siêu âm sẽ khiến cho đặc trưng hồng ngoại tăng lên, lớp không khí quanh thân máy bay sẽ tăng nhiệt độ, cho dù máy bay tàng hình không bị rađa phát hiện thì cũng sớm bị hệ thống giám sát hồng ngoại của đối phương phát hiện.
|
Ý tưởng máy bay thế hệ 6 của Nga. Ảnh: Aftershock |
Do đó, máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 phải đáp ứng được các yêu cầu về tính năng kỹ chiến thuật sau:
- Thứ nhất, nâng cao năng lực tàng hình, trong đó cốt lõi là giải quyết các vấn đề liên quan tới diện tích phản xạ radar.
Để giảm tiết diện phản xạ sóng radar trinh sát của đối phương, giới phân tích cho rằng, các máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 sẽ sử dụng một số phương pháp đó là:
1. Bỏ cánh đuôi thẳng đứng có thể loại bỏ được 81% RCS hướng cạnh. Tuy nhiên, sau khi bỏ cánh đuôi thẳng đứng, tính cơ động ngang của máy bay sẽ bị hạn chế, lúc này phi công có thể lợi dụng cánh tà để điều khiển đường bay;
2. Sử dụng vật liệu tàng hình mới. Hiệu quả của vật liệu hấp thụ sóng rađa cũng chưa tính hết được, nhưng cần phải có vật liệu khác nhau cho từng dải tần khác nhau để thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời ở phần RCS trọng điểm của đường khí vào phải phủ lớp sơn để giảm thấp RCS của bộ phận trọng điểm này, lớp sơn đó phải là loại phức hợp, không chỉ làm giảm phản xạ sóng điện từ bước sóng X mà còn giảm thấp cả phản xạ rađa đối với dải tần chính của rađa cảnh giới ở bước sóng L và S;
3. Cải tiến đường khí vào. Đường lấy khí vào chiếm tuyệt đại đa số RCS của máy bay, do vậy cần phải tìm cách cải tiến, có thể sử dụng đường khí vào kiểu chữ S, mặt cắt phần mép đường khí vào phải mỏng và nghiêng. Ngoài ra, một phương pháp đơn giản hơn là đường khí vào bố trí ở phần lưng để được che khuất bằng thân máy bay, như vậy sẽ giảm được sóng điện từ ở phía dưới lên.
- Thứ hai, năng lực tác chiến điện tử mạnh. Việc trang bị loại radar hiện đại, đa năng có khả năng phát hiện sớm đối phương trước khi đối phương dò thấy tín hiệu là yêu cầu bắt buộc phải có trên các máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6. Hệ thống radar kiểu mới này sẽ tiến hành phát hiện và gây nhiễu liên tục đối với radar của đối phương từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tên lửa tầm trung tấn công chính xác mục tiêu.
- Thứ ba, khả năng không chiến mạnh. Một biên đội máy bay chiến đấu thế hệ 6 được biên chế gồm 01 máy bay tàng hình cỡ lớn có người lái và 4 máy bay tàng hình cỡ nhỏ không người lái. Mỗi máy bay không người lái mang theo 6 quả tên lửa không đối không thế hệ mới, mỗi máy bay tàng hình loại lớn mang theo 24 quả tên lửa không đối không tầm xa loại mới, như vậy với 30 quả tên lửa không đối không có thể đáp ứng yêu cầu không chiến và đánh lui cả đội hình máy bay tấn công của đối phương.
|
Mô phỏng khả năng tấn công của máy bay thế hệ 6. Ảnh: Foxtrotalpha |
Tầm bắn của tên lửa mới yêu cầu trong khoảng 70km, đảm bảo bắn hạ mục tiêu một cách ổn định trong phạm vi 50km, ít nhất phải có khả năng chịu quá tải tối đa 35 - 40G như tên lửa không đối không hồng ngoại hiện đại để đối phó với máy bay tàng hình có khả năng siêu cơ động. Ngoài ra, phương thức điều khiển phải là vũ khí thông minh trang bị đường truyền dữ liệu 2 chiều và dẫn đường bằng hình ảnh hồng ngoại ở giai đoạn cuối. Tên lửa mới còn phải có khả năng chống nhiễu nguồn hồng ngoại bên ngoài thế hệ mới, nhằm đối phó với kỹ thuật gây nhiễu mới bằng hồng ngoại và lade.
- Thứ tư, cải tiến số lượng và phương thức mang tên lửa. Đối với máy bay thế hệ thứ 6 làm nhiệm vụ tấn công, muốn triệt tiêu mọi mối đe dọa uy hiếp trên đường bay tấn công, cần phải mang đủ số lượng vũ khí, trước hết là tên lửa không đối không, ít nhất phải đủ cơ số để tấn công 3 trận tác chiến trên không. Khi cuộc chiến xảy ra, máy bay chiến đấu thế hệ 6 có thể dùng để ứng phó với đội hình tấn công của máy bay đối phương. Trong các trường hợp thông thường, đội hình máy bay tấn công bao gồm: 1 máy bay cảnh giới; một số máy bay gây nhiễu, thường là 2 - 3 chiếc gây nhiễu khu vực, 2 - 3 chiếc gây nhiễu đi kèm (tùy theo tình hình cụ thể để bố trí); 8 - 12 chiếc đột kích và 8 - 12 chiếc yểm hộ. Nếu mỗi quả tên lửa không đối không có xác suất bắn trúng mục tiêu là 90% thì ít nhất cũng phải mang được khoảng 30 quả tên lửa các loại.
Đối với máy bay làm nhiệm vụ tác chiến phòng không, phải đảm bảo trong thời gian ngắn xuất kích được 1 biên đội kép, trên đường tuần tiễu có thể gặp 1 biên đội máy bay kép. Ngoài ra, còn phải tính đến việc sử dụng tên lửa điều khiển bằng bức xạ thụ động không đối đất, tấn công mục tiêu có giá trị cao như trung tâm chỉ huy hoặc trung tâm chính trị của đối phương.