Eosinopteryx brevipenna là loài khủng long tý hon có lông nhưng không biết bay, thuộc kỷ Jura (từ 145,5-199,6 triệu năm trước). Chúng có bộ lông khá gọn, nhưng không kém phần điệu đà. Con khủng long giống chim Eosinopteryx brevipenna chỉ dài chưa đầy 30cm, có mũi và đuôi ngắn, bộ lông của nó gọn gàng hơn những bộ lông của một số loài khủng long khác cùng thời. Loài khủng long ăn thực vật có tên gọi là Kulindadromeus zabaikalicus chưng diện bộ lông khá ấn tượng. Loài này thuộc nhóm ornithischians, sống khoảng 160 triệu năm trước trong thời gian giữa đến cuối kỷ Jura, là một loài khủng long nhỏ nhắn, chỉ dài 1,5m, có hai cánh tay ngắn và bước đi trên đôi chân thon dài.Khủng long Kulindadromeus zabaikalicus có bộ lông giống như những sợi tơ xung quanh cánh tay và chân, có tác dụng như vật liệu cách nhiệt, đồng thời cũng để thu hút bạn tình. Điểm đặc biệt là nó có một cái đuôi rất dài. Loài khủng long có tên gọi là Ornithomimus edmontonicus là khủng long có lông đầu tiên từng được phát hiện tại Tây bán cầu. Cơ thể của chúng đều được phủ một lớp lông dài 5 cm, nhưng ở con trưởng thành có thêm những lông dài giống như cánh. Bộ lông diêm dúa của khủng long lông vũ Ornithomimus edmontonicus có tác dụng để dụ dỗ con cái, giống như ở loài công. Càng trưởng thành, lông của chúng càng dài, cứng hơn và nhô thẳng về phía trước. Loài khủng long có lông vũ mới phát hiện được đặt tên Changyuraptor yangi, sống cách đây khoảng 125 triệu năm. Đây là loài khủng long ăn thịt có cánh với những chiếc lông vũ dài hơn cả các loài chim khác. Cả chi trước và chi sau của nó đều được bao phủ lông vũ khiến người nhìn có cảm giác chúng có 4 chiếc cánh. Changyuraptor yangi thuộc họ Microraptorine (loài khủng long ăn thịt có lông vũ) và có họ hàng với loài Velociraptor cũng như một số loài khủng long chim nổi tiếng khác. Lông đuôi dài tới 0,3 m của loài này có tác dụng điều chỉnh hướng bay.
Eosinopteryx brevipenna là loài khủng long tý hon có lông nhưng không biết bay, thuộc kỷ Jura (từ 145,5-199,6 triệu năm trước). Chúng có bộ lông khá gọn, nhưng không kém phần điệu đà.
Con khủng long giống chim Eosinopteryx brevipenna chỉ dài chưa đầy 30cm, có mũi và đuôi ngắn, bộ lông của nó gọn gàng hơn những bộ lông của một số loài khủng long khác cùng thời.
Loài khủng long ăn thực vật có tên gọi là Kulindadromeus zabaikalicus chưng diện bộ lông khá ấn tượng. Loài này thuộc nhóm ornithischians, sống khoảng 160 triệu năm trước trong thời gian giữa đến cuối kỷ Jura, là một loài khủng long nhỏ nhắn, chỉ dài 1,5m, có hai cánh tay ngắn và bước đi trên đôi chân thon dài.
Khủng long Kulindadromeus zabaikalicus có bộ lông giống như những sợi tơ xung quanh cánh tay và chân, có tác dụng như vật liệu cách nhiệt, đồng thời cũng để thu hút bạn tình. Điểm đặc biệt là nó có một cái đuôi rất dài.
Loài khủng long có tên gọi là Ornithomimus edmontonicus là khủng long có lông đầu tiên từng được phát hiện tại Tây bán cầu. Cơ thể của chúng đều được phủ một lớp lông dài 5 cm, nhưng ở con trưởng thành có thêm những lông dài giống như cánh.
Bộ lông diêm dúa của khủng long lông vũ Ornithomimus edmontonicus có tác dụng để dụ dỗ con cái, giống như ở loài công. Càng trưởng thành, lông của chúng càng dài, cứng hơn và nhô thẳng về phía trước.
Loài khủng long có lông vũ mới phát hiện được đặt tên Changyuraptor yangi, sống cách đây khoảng 125 triệu năm. Đây là loài khủng long ăn thịt có cánh với những chiếc lông vũ dài hơn cả các loài chim khác. Cả chi trước và chi sau của nó đều được bao phủ lông vũ khiến người nhìn có cảm giác chúng có 4 chiếc cánh.
Changyuraptor yangi thuộc họ Microraptorine (loài khủng long ăn thịt có lông vũ) và có họ hàng với loài Velociraptor cũng như một số loài khủng long chim nổi tiếng khác. Lông đuôi dài tới 0,3 m của loài này có tác dụng điều chỉnh hướng bay.