Cùng với Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền là một trong ba nhân vật được hậu thế nhắc đến nhiều nhất thời Tam quốc. Nhờ tài thao lược của mình, Tôn Quyền đã xây dựng nhà Đông Ngô ổn định, phát triển cho đến khi qua đời. Loạt bài dài kỳ này sẽ phân tích con người, tính cách và những điểm còn tranh cãi về hoàng đế Đông Ngô thời Tam quốc ở Trung Quốc.
Tôn Quyền (182 –252), tự Trọng Mưu, thụy hiệu Ngô Đại Đế là người sáng lập nhà Đông Ngô dưới thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
|
So với Tào Tháo (phải), Lưu Bị (trái), Tôn Quyền là người sống thọ nhất (ảnh từ phim truyền hình Trung Quốc). |
So với Tào Tháo và Lưu Bị, Tôn Quyền là người sống thọ nhất. Ông mất năm 71 tuổi; có thời gian cầm quyền nhà Đông Ngô dài nhất, tới 52 năm.
Tôn Quyền kế thừa cơ nghiệp của cha và anh, trấn thủ Giang Nam. Ông là người giỏi mưu lược, biết thay đổi theo thời cuộc, nhờ vậy mà thành bá chủ một phương.
Sử gia Trần Thọ đánh giá về Tôn Quyền trong Tam quốc chí: "Mưu lược, tài năng như Câu Tiễn, là người kiệt xuất".
Tuổi trẻ tài cao
Tôn Quyền mới 18 tuổi đã nối nghiệp anh mình, trở thành người nắm quyền tối cao ở Giang Đông.
Tôn gia từ thời khởi nghiệp đã quán triệt chính sách lôi kéo hiền tài. Lúc Tôn Sách sắp mất, gọi Tôn Quyền đến bảo rằng: "Quyết mưu giữa hai trận đánh, tranh giành thiên hạ, khanh không bằng ta, dùng người hiền tài để họ hết lòng gìn giữ Giang Đông, ta không bằng khanh".
Tôn Sách qua đời, Tôn Quyền tiếc thương cho cái chết của anh trai đến nỗi không thể ngưng khóc, nhưng rồi theo lời khuyên của Trương Chiêu, ông mặc quân phục đến thăm hỏi các tướng cũ của huynh trưởng. Không ít người thấy Tôn Quyền quá trẻ, nghi ngờ vào năng lực nên rời đi.
Trương Chiêu và Chu Du nhìn ra được tố chất của vị chủ công trẻ tuổi và quyết định tiếp tục theo phò Tôn Quyền
Các học giả Trung Quốc sau này thừa nhận rằng, biết nhìn ra người tài chính là vũ khí tối thượng của Tôn Quyền.
Danh tướng Lữ Mông vốn chỉ là một người lính bình thường. Một lần Tôn Quyền duyệt binh, trông thấy Lữ Mông chỉ huy một nhóm lính "bộ pháp chỉnh tề, tinh thần phấn chấn", nên rất hài lòng, bèn phá cách đề bạt Lữ Mông.
Sau này, Lữ Mông trở thành đại tướng anh dũng thiện chiến, vang danh thiên hạ với chiến công đánh bại Quan Vũ, đoạt Kinh Châu về cho Đông Ngô.
Danh tướng Lục Tốn của Ngô ban đầu cũng chỉ là một thư sinh, không có công tích gì. Sau khi đại quân Thục - Ngô khai chiến, được Lữ Mông tiến cử, Tôn Quyền lập tức giao đại quyền vào tay Tốn.
Không phụ sự kỳ vọng của Quyền, Lục Tốn đã đánh tan quân Lưu Bị trong trận Di Lăng.
Cũng nhờ sự phá cách trong cách dùng người, mà thời kỳ cai trị của Tôn Quyền được đánh giá là người tài nhiều không kể xiết, không rơi vào tình trạng thiếu nhân tài như giai đoạn Thục Hán suy vong.
Nhẫn nhục chờ thời
Đặc biệt, Tôn Quyền được đánh giá là biết cách thể hiện sự tín nhiệm đối với các tướng lĩnh, điển hình là việc trao toàn quyền vào tay Chu Du trong đại chiến Xích Bích, hay Lữ Mông trong chiến dịch Kinh Châu và Lục Tốn ở trận Di Lăng.
Tôn Quyền còn cho làm ấn tín và đưa đến chỗ Lục Tốn; bất cứ khi nào trao đổi với Thục Hán thì Lục Tốn sẽ là người cuối cùng đóng dấu ấn tín để gửi sang Thục, vì nơi đóng quân của Lục Tốn gần biên giới Thục.
Lục Tốn và Gia Cát Cẩn còn được toàn quyền điều phối quan hệ với Thục mà không cần báo trước với Tôn Quyền.
Tôn Quyền đối xử với các quan chức cấp cao như bạn bè và gọi họ bằng tên cho thân thiết. Điều này khiến các quan dưới quyền ai cũng hết mực trung thành. Ông cũng biết dùng người vào đúng việc, sẵn sàng đề bạt người từng công khai chỉ trích mình.
Theo các sử gia Trung Quốc, Tôn Quyền đã từng bước thực hiện "mộng đế vương" một cách khôn ngoan.
Ban đầu, khi quân thần khuyên Tôn Quyền xưng đế, ông đã nhiều lần thoái thác. Nguyên nhân là do Tào Tháo khi ấy sở hữu đội quân mạnh nhất thời Tam quốc, lại còn giương cao khẩu hiệu "phò tá Thiên tử hiệu lệnh chư hầu".
Lưu Bị cũng mượn danh "Hoàng thúc" để dựng cờ khôi phục nhà Hán. Tôn Quyền tự biết bản thân không "danh chính ngôn thuận" để xưng đế, nên đã hết sức nhẫn nhịn.
Năm 229, khi cả Tào Tháo và Lưu Bị đều đã qua đời, cục diện chính trị tại Đông Ngô ổn định, Tôn Quyền mới đăng cơ xưng đế.
Tiếc rằng khi về già, Tôn Quyền đã đánh mất sự sáng suốt. Ông trở nên đa nghi, mất trí, khiến Đông Ngô càng mâu thuẫn nội bộ sâu sắc
Trần Thọ viết trong Tam quốc về Tôn Quyền giai đoạn cuối đời: “Vội vàng giết chóc, đến năm cuối đời lại càng thêm xấu. Tin lời gièm mà làm mất đức, phế bỏ người nối dõi, há gọi là mưu nghĩ giúp đỡ cho con cháu được yên sao? Dòng dõi sau này suy yếu, dẫn đến mất nước, không hẳn là không do từ đó vậy”.