Được lưu giữ ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, đài thờ Đồng Dương là tên gọi của những đài thờ lớn được phát hiện tại Phật viện Đồng Dương, một trung tâm Phật giáo nằm ở đô thành Indrapura (nay nằm ở huyện Thăng Bình, Quảng Nam) thời kỳ vương triều Indrapura của người Chăm.Cuộc khai quật đầu thế kỷ 20 của người Pháp đã xác định ba nhóm kiến trúc khác nhau trong khu đền chính của Phật viện, trong đó nhóm phía trước gọi là Vihara, nghĩa là tu viện. Đây là khu vực tìm thấy đài thờ Đồng Dương ký hiệu 22.25.Đài thờ này gồm các phiến đá lớn chạm được chạm khắc tinh xảo và ghép lại với nhau. Đáng chú ý, phía trên đài thờ có một một tượng Phật (ký hiệu 13.5) được coi là tượng Phật lớn nhất của vương quốc Chăm Pa từng được phát hiện.Tượng được thể hiện trong tư thế ngồi trên ghế, hai tay để trên đầu gối, chân buông thẳng xuống nền, được gọi là "kiểu ngồi châu Âu", để phân biệt với kiểu ngồi xếp bàn hai chân hoặc một chân.Ở các góc đài thờ có những tượng nhỏ thể hiện hình ảnh những vị tu sĩ đang dâng hoa hoặc trầm hương cúng dường Phật. Tại đây cũng tìm thấy một số tượng các vị thần bảo vệ giáo luật của Phật (Dharmapala hay Deva).Ở nhóm sau của khu đền chính, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy những phiến đá của một đài thờ tương tự như đài thờ ở tu viện phía trước. Đài thờ này được ký hiệu 22.24.Các bức chạm khắc trên các phiến đá của đài thờ này thể hiện cảnh sinh hoạt cung đình và một số trích đoạn về cuộc đời Phật Thích ca. Ngoài ra còn có các tượng La Hán.Nhóm kiến trúc giữa chỉ còn dấu vết của chân tường, bậc thềm của một ngôi nhà nhỏ hơn tu viện ở nhóm đông. Ở khu vực này đã tìm thấy 4 pho tượng hộ pháp cao gần 2 mét.Hơn nửa thế kỷ sau các cuộc khai quật của người Pháp, đến năm 1978, nhân dân địa phương đã đào được một pho tượng bằng đồng ở Phật viện Đồng Dương. Tượng cao 114 cm, đường nét chạm khắc tinh tế. Tượng được gọi tên là tượng nữ thần Tara hoặc Bồ tát Tara.Đây có thể là pho tượng đặt tại đài thờ trung tâm dâng cúng cho thần Lakshmindra Lokeshvara. Hiện tại bức tượng nữ thần Tara đã được công nhận là bảo vật quốc gia của Việt Nam.Các nhà nghiên cứu nhận định, khu đền tháp Đồng Dương không chỉ đánh dấu sự ra đời của một triều đại mới mà còn đánh dấu sự thay đổi trong tín ngưỡng từ việc tôn thờ thần Siva là thần bảo hộ chính (như ở di tích Mỹ Sơn) sang thờ các vị Phật và Bồ tát.Sự thay đổi về nội dung cũng đi liền với sự thay đổi trong cách thể hiện nghệ thuật nếu so sánh với cách tạc tượng và trang trí hoa văn ở các tượng và tháp ở phong cách Mỹ Sơn E1.Tượng người chạm khắc trên các đài thờ và tượng ở Đồng Dương có nét cường điệu, đàn ông có khuôn mặt gần như vuông, trán thấp, lông mày rậm và giao nhau, miệng rộng, môi dày, ria mép rậm; phụ nữ có gương mặt thô và bộ ngực lớn.Hoa văn trang trí trên tường tháp và các cột trụ là những cành lá cách điệu xoắn xít, rậm rạp trông giống như những con sâu (vermicule).Các đặc điểm này tạo nên sự khác biệt dễ nhận thấy trong phong cách nghệ thuật và tên gọi "phong cách Đồng Dương" được dùng để chỉ tất cả những tác phẩm điêu khắc Chăm có những đặc điểm tương tự, có niên đại khoảng cuối thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X.Hiện nay, hầu như toàn bộ khu đền tháp Đồng Dương đã trở thành bình địa do chiến tranh, thiên tai và cả tác động của con người.Những hiện vật được lưu giữ ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng chính là chứng tính quan trọng nhất về sự tồn tại của trung tâm Phật giáo lớn nhất vương quốc Chăm Pa một thời. (Bài có sử dụng tư liệu của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng).Mời quý độc giả xem video: Toàn cảnh TP Đà Nẵng nhìn từ trên cao qua ống kính flycam.
Được lưu giữ ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, đài thờ Đồng Dương là tên gọi của những đài thờ lớn được phát hiện tại Phật viện Đồng Dương, một trung tâm Phật giáo nằm ở đô thành Indrapura (nay nằm ở huyện Thăng Bình, Quảng Nam) thời kỳ vương triều Indrapura của người Chăm.
Cuộc khai quật đầu thế kỷ 20 của người Pháp đã xác định ba nhóm kiến trúc khác nhau trong khu đền chính của Phật viện, trong đó nhóm phía trước gọi là Vihara, nghĩa là tu viện. Đây là khu vực tìm thấy đài thờ Đồng Dương ký hiệu 22.25.
Đài thờ này gồm các phiến đá lớn chạm được chạm khắc tinh xảo và ghép lại với nhau. Đáng chú ý, phía trên đài thờ có một một tượng Phật (ký hiệu 13.5) được coi là tượng Phật lớn nhất của vương quốc Chăm Pa từng được phát hiện.
Tượng được thể hiện trong tư thế ngồi trên ghế, hai tay để trên đầu gối, chân buông thẳng xuống nền, được gọi là "kiểu ngồi châu Âu", để phân biệt với kiểu ngồi xếp bàn hai chân hoặc một chân.
Ở các góc đài thờ có những tượng nhỏ thể hiện hình ảnh những vị tu sĩ đang dâng hoa hoặc trầm hương cúng dường Phật. Tại đây cũng tìm thấy một số tượng các vị thần bảo vệ giáo luật của Phật (Dharmapala hay Deva).
Ở nhóm sau của khu đền chính, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy những phiến đá của một đài thờ tương tự như đài thờ ở tu viện phía trước. Đài thờ này được ký hiệu 22.24.
Các bức chạm khắc trên các phiến đá của đài thờ này thể hiện cảnh sinh hoạt cung đình và một số trích đoạn về cuộc đời Phật Thích ca. Ngoài ra còn có các tượng La Hán.
Nhóm kiến trúc giữa chỉ còn dấu vết của chân tường, bậc thềm của một ngôi nhà nhỏ hơn tu viện ở nhóm đông. Ở khu vực này đã tìm thấy 4 pho tượng hộ pháp cao gần 2 mét.
Hơn nửa thế kỷ sau các cuộc khai quật của người Pháp, đến năm 1978, nhân dân địa phương đã đào được một pho tượng bằng đồng ở Phật viện Đồng Dương. Tượng cao 114 cm, đường nét chạm khắc tinh tế. Tượng được gọi tên là tượng nữ thần Tara hoặc Bồ tát Tara.
Đây có thể là pho tượng đặt tại đài thờ trung tâm dâng cúng cho thần Lakshmindra Lokeshvara. Hiện tại bức tượng nữ thần Tara đã được công nhận là bảo vật quốc gia của Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu nhận định, khu đền tháp Đồng Dương không chỉ đánh dấu sự ra đời của một triều đại mới mà còn đánh dấu sự thay đổi trong tín ngưỡng từ việc tôn thờ thần Siva là thần bảo hộ chính (như ở di tích Mỹ Sơn) sang thờ các vị Phật và Bồ tát.
Sự thay đổi về nội dung cũng đi liền với sự thay đổi trong cách thể hiện nghệ thuật nếu so sánh với cách tạc tượng và trang trí hoa văn ở các tượng và tháp ở phong cách Mỹ Sơn E1.
Tượng người chạm khắc trên các đài thờ và tượng ở Đồng Dương có nét cường điệu, đàn ông có khuôn mặt gần như vuông, trán thấp, lông mày rậm và giao nhau, miệng rộng, môi dày, ria mép rậm; phụ nữ có gương mặt thô và bộ ngực lớn.
Hoa văn trang trí trên tường tháp và các cột trụ là những cành lá cách điệu xoắn xít, rậm rạp trông giống như những con sâu (vermicule).
Các đặc điểm này tạo nên sự khác biệt dễ nhận thấy trong phong cách nghệ thuật và tên gọi "phong cách Đồng Dương" được dùng để chỉ tất cả những tác phẩm điêu khắc Chăm có những đặc điểm tương tự, có niên đại khoảng cuối thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X.
Hiện nay, hầu như toàn bộ khu đền tháp Đồng Dương đã trở thành bình địa do chiến tranh, thiên tai và cả tác động của con người.
Những hiện vật được lưu giữ ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng chính là chứng tính quan trọng nhất về sự tồn tại của trung tâm Phật giáo lớn nhất vương quốc Chăm Pa một thời. (Bài có sử dụng tư liệu của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng).
Mời quý độc giả xem video: Toàn cảnh TP Đà Nẵng nhìn từ trên cao qua ống kính flycam.