Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh, 1500-1540) là hoàng đế thứ hai nhà Mạc, quê huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương ngày nay. Ông là con trưởng của Thái Tổ (Mạc Đăng Dung).
Theo sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, “năm Canh Dần (1530), tháng giêng, mùng 1 là ngày Đinh Hợi, Đăng Doanh tiếm ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính”.
Mạc Thái Tông được xem là ông vua có nhiều đóng góp to lớn trong việc trị nước. Là người chú trọng khoa cử, đều đặn 3 năm, ông mở một khoa thi để tuyển chọn người tài.
Khi mới lên ngôi, Mạc Thái Tông thấy trong nước nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm dân các xứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và binh khí đi ngoài đường. Ai trái lệnh sẽ bị trị tội. Từ đó, những người buôn bán chỉ đi tay không, không phải mang khí giới tự vệ.
Cũng theo Đại Việt thông sử, "trong vài năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm lại".
Lê Thế Tông (Lê Duy Đàm, 1566-1599) là con thứ năm của Lê Anh Tông, được Trịnh Tùng đưa lên ngôi vua đúng ngày đầu năm mới năm 1573.
Vua Thế Tông cai trị trong thời kỳ mà Trịnh Tùng chiếm được kinh thành từ tay nhà Mạc. Kể từ đây, quyền lực thực sự rơi vào tay Trịnh Tùng. Vua không có thực quyền, bắt đầu thời kỳ được gọi là thờivua Lê chúa Trịnh.
Ngày 24/8/1599 âm lịch, vua Thế Tông mất, ở ngôi được 26 năm, thọ 33 tuổi.
|
Vua Minh Mạng. |
Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (thường được gọi là hoàng đế Minh Mạng, 1791-1841) là vua thứ 2 của triều Nguyễn. Ông tên thật Nguyễn Phúc Đảm, con trai thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi sáng mùng 1 năm Canh Thìn (1820).
Trong thời gia trị vì, vua Minh Mạng đề xuất hàng loạt cải cáchtừ nội trị đến ngoại giao, góp công xây dựng đất nước hùng cường, lớn mạnh nhất khu vực.
Vốn là người tinh thông nho học và sùng đạo Khổng Mạnh, vua Minh Mạng rất quan tâm việc học tập và củng cố thi cử. Năm 1822,ông mở lại các kỳ thi Hội, Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài.
Dưới thời cai trị của vua Minh Mạng, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng hơn so với các triều đại trước, kéo dài từ Lạng Sơn tới tận Cà Mau.
Hoài Trạch Công Hoàng Đế (Thành Thái) là vị hoàng đế thứ 10 của triều Nguyễn. Ông tên thật Nguyễn Phúc Bửu Lân, con thứ 7 của vua Dục Đức.
Ngày 27/12/1888 (Mậu Tý), vua Đồng Khánh mất vì bệnh khi mới 25 tuổi. Bửu Lân được chọn lên ngai vàng ngày mùng 1 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1889), lấy niên hiệu là Thành Thái.
Tuy lên ngôi lúc mới 10 tuổi, vua Thành Thái đã bộc lộ tố chất yêu nước, có quan điểm chống Pháp, không ưa quan lại xu nịnh.
Những hành động của vị vua trẻ tuổi bị quan lại của Pháp để ý, theo dõi. Chúng tìm mọi cách loại bỏ vua khỏi ngai vàng.
Ngày 29/7/1907, vua Thành Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số quan lại đã được Khâm sứ Pháp và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận. Chúng tuyên bố truất quyền và quản thúc Thành Thái trong đại nội.
Ngày 3/9/1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị, với lý do sức khoẻ không bảo đảm.
Xem xong bản dự thảo, vua Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào. Ngày 12/9/1907, ông bị đưa đi quản thúc ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay).
Đến nǎm 1916, ông bị đày ra đảo cùng con trai. Phải đến đầu tháng 5/1945, nhờ sự vận động của con gái và con rể của ông (vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường), cựu hoàng Thành Thái mới được về sống ở Vũng Tàu.
Đến tháng 3/1953, ông mới được cho về Huế thăm lăng tẩm cha mẹ. Vua mất ngày 24/3/1954, được an táng tại xã An Cựu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, thọ 75 tuổi.