Lăng Minh Mạng còn được gọi là Hiếu Lăng, có bố cục kiến trúc đối xứng với các công trình nằm dọc theo trục đường thần đạo. Cổng chính của lăng là Đại Hồng Môn, chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng. Sau đó, việc ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, một khoảng sân rộng 45m x 45m lát gạch Bát Tràng, hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầuCuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn.Bên trong Bi Đình có bia "Thánh đức thần công" bằng đá ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha Minh Mạng.Sau Bi Đình là khoảng sân triều lễ được chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc.Cuối sân triều lễ là Hiển Đức Môn, cánh cổng mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất.Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm khu vực tẩm điện.Trong điện thờ bài vị của vua Minh Mạng và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu, chính thất của vua.Ở phía trước, đối xứng hai bên bên trái và bên phải điện Sùng Ân có Tả, Hữu Phối Điện, phía sau có Tả, Hữu Tùng Phòng.Khu tẩm điện kết thúc với Hoằng Trạch Môn.Bước qua Hoằng Trạch Môn là bắt đầu một không gian đầy thi vị với hồ Trừng Minh và và những hàng cây xanh tốt xung quanh.Ba chiếc cầu Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh đưa du khách đến Minh Lâu, một tòa lầu nằm trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Đây là công trình mang giá trị kiến trúc nổi bật của khu lăng.Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông, thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa..Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã "bình thành công đức" trước khi về cõi vĩnh hằng.Từ Minh Lâu đi xuống sẽ gặp cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt để dẫn vào Bửu Thành, tòa thành bảo vệ nơi yên nghỉ của nhà vua.Hồ Tân Nguyệt là hồ nước được tạo hình như trăng non, là yếu tố "Âm" bao bọc, che chở cho yếu tố "Dương" là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật.Mộ vua nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.Hình tròn của Bửu Thành nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cốTừ chân Khải Trạch Sơn có 33 bậc cấp dẫn lên cổng của Bửu Thành, cánh cổng dẫn vào thế giới vĩnh hằng của người đã khuất.Người các công trình chính nằm dọc đường thần đạo, lăng Minh Mạng còn có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn, Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn, Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn, Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn, Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn...Tiếc rằng do sự tàn phá của thời gian, các công trình này chỉ còn là phế tích.Theo đánh giá của giới nghiên cứu, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, đã tạo nên nét đẹp riêng cho lăng Minh Mạng.Bố cục kiến trúc đăng đối hoàn hảo của các hạng mục chính đã đem lại vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ vua chúa.Bên cạnh đó, sự hài hòa giữa các công trình nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên cũng đem lại giá trị kiến trúc đặc sắc cho lăng Minh Mạng.Điều này thể hiện qua những con đường đi dạo quanh co vòng quanh các hồ nước lớn và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnhĐiều này làm cho toàn bộ quần thể lăng dù uy nghiêm tột bậc nhưng vẫn gợi lên cảm giác thư thái do sự mềm mại của thiên nhiên.Ngoài ra, lăng Minh Mạng còn sở hữu một giá trị văn hóa nổi bật là gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu. Đây là những tuyệt tác vô giá, một "bảo tàng thơ" chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.Ngược dòng lịch sử. Tháng 2/1820, vua Gia Long băng hà. Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình.Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương. Phát mất 14 năm cân nhắc, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.Vua Minh Mạng đã cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4/1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.Không lâu sau đó, vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1/1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.Vậy là, từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người, một tuyệt tác kiến trúc đã hình thành, trở thành di sản vô giá để lại cho hậu thế...
Lăng Minh Mạng còn được gọi là Hiếu Lăng, có bố cục kiến trúc đối xứng với các công trình nằm dọc theo trục đường thần đạo. Cổng chính của lăng là Đại Hồng Môn, chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng. Sau đó, việc ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, một khoảng sân rộng 45m x 45m lát gạch Bát Tràng, hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu
Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn.
Bên trong Bi Đình có bia "Thánh đức thần công" bằng đá ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha Minh Mạng.
Sau Bi Đình là khoảng sân triều lễ được chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc.
Cuối sân triều lễ là Hiển Đức Môn, cánh cổng mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất.
Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm khu vực tẩm điện.
Trong điện thờ bài vị của vua Minh Mạng và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu, chính thất của vua.
Ở phía trước, đối xứng hai bên bên trái và bên phải điện Sùng Ân có Tả, Hữu Phối Điện, phía sau có Tả, Hữu Tùng Phòng.
Khu tẩm điện kết thúc với Hoằng Trạch Môn.
Bước qua Hoằng Trạch Môn là bắt đầu một không gian đầy thi vị với hồ Trừng Minh và và những hàng cây xanh tốt xung quanh.
Ba chiếc cầu Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh đưa du khách đến Minh Lâu, một tòa lầu nằm trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.
Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Đây là công trình mang giá trị kiến trúc nổi bật của khu lăng.
Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông, thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa..
Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã "bình thành công đức" trước khi về cõi vĩnh hằng.
Từ Minh Lâu đi xuống sẽ gặp cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt để dẫn vào Bửu Thành, tòa thành bảo vệ nơi yên nghỉ của nhà vua.
Hồ Tân Nguyệt là hồ nước được tạo hình như trăng non, là yếu tố "Âm" bao bọc, che chở cho yếu tố "Dương" là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật.
Mộ vua nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.
Hình tròn của Bửu Thành nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố
Từ chân Khải Trạch Sơn có 33 bậc cấp dẫn lên cổng của Bửu Thành, cánh cổng dẫn vào thế giới vĩnh hằng của người đã khuất.
Người các công trình chính nằm dọc đường thần đạo, lăng Minh Mạng còn có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn, Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn, Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn, Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn, Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn...
Tiếc rằng do sự tàn phá của thời gian, các công trình này chỉ còn là phế tích.
Theo đánh giá của giới nghiên cứu, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, đã tạo nên nét đẹp riêng cho lăng Minh Mạng.
Bố cục kiến trúc đăng đối hoàn hảo của các hạng mục chính đã đem lại vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ vua chúa.
Bên cạnh đó, sự hài hòa giữa các công trình nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên cũng đem lại giá trị kiến trúc đặc sắc cho lăng Minh Mạng.
Điều này thể hiện qua những con đường đi dạo quanh co vòng quanh các hồ nước lớn và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh
Điều này làm cho toàn bộ quần thể lăng dù uy nghiêm tột bậc nhưng vẫn gợi lên cảm giác thư thái do sự mềm mại của thiên nhiên.
Ngoài ra, lăng Minh Mạng còn sở hữu một giá trị văn hóa nổi bật là gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu. Đây là những tuyệt tác vô giá, một "bảo tàng thơ" chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.
Ngược dòng lịch sử. Tháng 2/1820, vua Gia Long băng hà. Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình.
Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương. Phát mất 14 năm cân nhắc, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.
Vua Minh Mạng đã cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4/1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.
Không lâu sau đó, vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1/1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.
Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.
Vậy là, từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người, một tuyệt tác kiến trúc đã hình thành, trở thành di sản vô giá để lại cho hậu thế...