Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820. Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, Được xem là một ông vua năng động
và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến
ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây
đến Việt Nam. Vua Thiệu Trị (1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì
từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra
còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh
Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa. Vua Tự Đức (1829 – 1883), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên
thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con
trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn, Thiệu Trị. Ông là vị
vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847
đến 1883. Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần rơi vào tay
quân Pháp.Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có
tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị
và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế
truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.
Kiến Phúc (1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được
gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là
con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị
Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883,
tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi. Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai
của vua Kiến Phúc. Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau
khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết
đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong trào
Cần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem
an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie). Vua Đồng Khánh (1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế
thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Tên húy của nhà
vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ,
Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài
ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương
Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức nhận làm con
nuôi năm 1865. Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại
vị từ 1889 đến 1907. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên
là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh
Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Do chống Pháp nên ông bị đi đày tại ngoại
quốc. Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ
1907 tới 1916), sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu
đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông bất
hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt
Nam. Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ
Dương. Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12
nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên
húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng
của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục. Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều
Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy
của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục
danh "mệ Vững" là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng
ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ
giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua. Hình ảnh: ABS Travel.
Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, Được xem là một ông vua năng động
và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến
ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây
đến Việt Nam.
Vua Thiệu Trị (1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì
từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra
còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh
Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.
Vua Tự Đức (1829 – 1883), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên
thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con
trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn, Thiệu Trị. Ông là vị
vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847
đến 1883. Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần rơi vào tay
quân Pháp.
Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có
tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị
và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế
truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.
Kiến Phúc (1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được
gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là
con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị
Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883,
tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi.
Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai
của vua Kiến Phúc. Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau
khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết
đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong trào
Cần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem
an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie).
Vua Đồng Khánh (1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế
thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Tên húy của nhà
vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ,
Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài
ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương
Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức nhận làm con
nuôi năm 1865.
Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại
vị từ 1889 đến 1907. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên
là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh
Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Do chống Pháp nên ông bị đi đày tại ngoại
quốc.
Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ
1907 tới 1916), sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu
đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông bất
hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt
Nam. Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ
Dương.
Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12
nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên
húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng
của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.
Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều
Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy
của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục
danh "mệ Vững" là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng
ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ
giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua. Hình ảnh: ABS Travel.