Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay.
Trong các di sản còn lại của thời phong kiến thì kinh thành Huế là còn nguyên vẹn và tiêu biểu nhất. Kiến trúc của kinh thành chính là thể hiện tầm vóc và sinh khí của cả dân tộc.
Duyệt Thị Đường: Nhã nhạc cung đình, giải trí để di dưỡng tinh thần cao thượng
Giải trí là một phần rất quan trọng trong đời sống con người, để giảm bớt áp lực công việc và nghỉ ngơi thư giãn. Đối với Hoàng đế chuyện đó cũng không ngoại lệ. Thế nên nhà hát hoàng gia lớn nhất đã được thi công ngay trong Cấm Thành vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826). Nhà hát mang tên Duyệt Thị Đường nghĩa là “Nơi để xem xét điều phải trái”, là nơi biểu diễn các vở tuồng cho vua, hoàng gia và các quan khách.
Nhà hát hình chữ nhật, rộng rãi với bộ mái có bờ quyết cong giống như những đình chùa ở Huế, được chống đỡ bởi hai hàng cột lim sơn son có chiều cao 12m, vẽ rồng ẩn mây cuốn xung quanh và được chia làm 2 tầng. Ở lưng chừng mỗi cột treo thêm một bức tranh sơn thuỷ vẽ cảnh Huế với khung chạm rồng nổi thiếp vàng. Trên cao hơn, Mặt Trời, Mặt Trăng, tinh tú tượng trưng cho vũ trụ được vẽ hoặc chạm nổi lên trần nhà màu xanh lơ. Tòa nhà nối liền với các cung điện của nhà vua và các bà hoàng bằng một dãy hành lang có mái khúc khuỷu, quanh co.
|
Duyệt Thị Đường được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (năm 1826) nằm bên trong Tử Cấm Thành là nơi biểu diễn các vở tuồng cho vua, hoàng gia và các quan khách. |
Vì là để biểu diễn cho vua xem nên nội dung các vở tuồng cũng như âm nhạc đều có yêu cầu rất cao về nghệ thuật cũng như ý nghĩa với mục đích là giải trí phải giúp tu dưỡng tinh thần nhà vua, không phải để phóng túng tâm tham dật và ham hưởng lạc. Ngay cả cái tên Duyệt Thị Đường cũng đã thể hiện rất rõ điều này.
Những năm 1820 – 1840, vua Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt Thị Đường (1824-1826), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ đường. Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc.
Thế Miếu, Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các: Kế thừa ý chí tiên vương
Từ Diên Thọ cung đi về phía Tây Nam của Tử Cấm Thành là đến quần thể thờ cúng của vua gồm có Thế Tổ Miếu, Cửu Đỉnh và Hiển Lâm Các. Đây là những công trình quan trọng bậc nhất trong Hoàng thành Huế.
Sự quan trọng này khởi nguồn từ yếu tố tâm linh truyền thống và phong thủy của tòa kinh thành. Như đã nói, để hoàn thành đế nghiệp cho dòng họ, các chúa Nguyễn bỏ ra hơn 200 năm gây dựng âm đức, tụ linh sinh long mạch và khởi công dựng kinh đô. Việc tích âm đức quan trọng nhất, chính là được truyền thừa từ đời này qua đời khác. Một trong những hình thức đó chính là thờ cúng tổ tiên và xây dựng nơi yên nghỉ của tiền nhân.
Ngoài ra, mộ phần và sự thờ cúng tổ tiên trong Bát Tự lý số lại đóng vai trò là Thiên Tài (chủ về tài chính, tài lộc) của chủ mệnh Hoàng đế. Nếu mộ phần được chăm sóc thờ cúng tốt thì Hoàng đế sẽ luôn vượng tài. Ngoài ra, Tài mà mạnh sẽ sinh xuất bản mệnh vua, khiến cho nó bớt mạnh mẽ, trở nên nhu hòa hơn, cũng chính là lý trí và không cực đoan. Điều này rất cần thiết bởi vốn dĩ đế vương bản mệnh ai cũng rất mạnh mẽ, nếu không có thứ để giảm bớt đi thì sẽ rất nguy hiểm cho quốc gia. Điều này cũng có nghĩa là khi vua thực hiện việc thờ cúng thì sẽ kế thừa tinh thần của tiên đế mà không dám phóng túng bản thân làm điều bốc đồng. Đó mới thật sự là phúc khí của quốc gia vậy.
|
Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này. |
Hiển Lâm Các là một công trình cao nhất trong hoàng cung, không có bất kỳ công trình nào được phép xây cao hơn nó. Đây chính là nơi trưng bày, thờ cúng các chiến công của các vua đời trước cũng như ghi công các công thần khai quốc. Chiều cao của Hiển Lâm Các (làm bằng 4 cột gỗ cao 13 m) chính là thể hiện sự trọng vọng và ghi nhớ công ơn của quốc gia đối với các minh quân và công thần.
Trong ý nghĩa phong thủy, Hiển Lâm Các thuộc Giáp Mộc (gỗ to) còn tượng trưng cho các trụ cột của triều đình luôn cao lớn mạnh mẽ để gánh vác quốc gia mãi mãi. Bởi vì Mộc (các quan nhờ Thổ hoàng gia) mà trở nên cao lớn và có giá trị, đồng thời chính là thể hiện ân trạch hoàng gia vĩnh viễn sâu dày. Toàn bộ các cây gỗ ở Hiển Lâm Các sơn màu đỏ, tượng trưng cho trí tuệ của các quan sẽ sinh vượng cho Thổ (hoàng gia) bền vững. Đó là một vòng tuần hoàn trong tự nhiên, cũng chính là đạo quân thần nhắc nhở cho cả vua và quan. Chỉ có tôn trọng đạo quân thần thì quốc gia mới hưng thịnh.
Cửu Đỉnh đặt trước Hiển Lâm Các, đối diện Thế Miếu mang hàm nghĩa rất sâu xa. Tương truyền rằng, sau khi Hạ Vũ chia thiên hạ thành chín châu (cửu châu) thì lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh (Cửu Đỉnh), khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào Cửu Đỉnh, mỗi đỉnh tượng trưng cho một châu, toàn bộ cất giữ tại kinh đô nhà Hạ. Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia. Từ đó có câu nói: “Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ“.
|
Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn là chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông năm 1835 và khánh thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1837. Ảnh dẫn theo wikipedia.org |
Nhà Nguyễn thống nhất Việt Nam với một dải sơn hà rộng lớn chưa từng có dưới thời Minh Mạng. Bởi vậy đây cũng chính là dịp tốt nhất để tái hiện lại tích xưa, vừa có thể nêu lên uy vọng của triều đại đồng thời lưu lại một vật báu truyền quốc cho con cháu. Với ý nghĩa ấy, tháng 10 âm lịch năm 1835, vua Minh Mạng xuống dụ chỉ cho Nội các, sai đúc Cửu Đỉnh riêng cho triều đại của mình, triều Nguyễn. Dụ chỉ như sau:
“Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống, đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thực to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu… Đó là để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững, dõi truyền đời sau. Chuẩn cho quan phần việc theo đúng kiểu mẫu mới định mà đúc”.
Làm Hoàng đế không dễ
Trong lịch sử, tiêu chuẩn đặt ra cho một Hoàng đế là rất cao. Những Thiên tử từ tấm bé đã phải tuân theo một nền giáo dục tiêu chuẩn cao nhất của Nho giáo, vốn ước thúc tất cả hành vi. Từ ăn nói, ngủ nghỉ đến đi đứng, nằm ngồi đều phải theo đúng lễ nghi, dưới sự giám thị của những người thầy tài năng và nghiêm khắc nhất.
Lớn lên một chút thì Hoàng đế được học chữ Hán, Thi Thư, sách Đạo học Thánh hiền, cho đến quân sự chính trị, lịch sử cổ kim. Tất cả nhằm mục đích tạo ra một vị vua tốt nhất có thể dù đó là người có tư chất kém hay tốt như thế nào. Bởi dưới một nền tảng giáo dục như vậy tất sẽ hun đúc ra một vị vua chân chính, phong thái uy nghi, biết khắc chế dục vọng cá nhân và có kiến thức sâu rộng.
Cứ thử nhìn vào bản chiếu chỉ của các vua nhà Nguyễn còn lưu lại (gọi là châu bản), bạn sẽ phải ngạc nhiên khi thấy từng chữ trong đó đều được viết rất đẹp, đều tăm tắp y như in ra từ máy. Người ta nói nét chữ là nết người, tâm trí của người viết bình thản và vững chắc đến mức nào để có thể viết ra được những dòng chữ đẹp như vậy?
Mặt khác, các bậc Thiên tử cũng phải gánh chịu một áp lực khổng lồ ngay từ tấm bé, lúc được chọn làm người kế vị. Bởi thế rất nhiều ông vua sau khi lên nắm quyền đã thực sự đã phóng túng và trở thành bạo chúa. Tuy vậy đó không phải là lỗi của nền giáo dục quy chuẩn hoàng gia mà là nhân cách của vị vua đó yếu kém hơn các vị khác mà thôi. Không thể chỉ vì một vài bạo chúa mà phủ nhận công lao suốt mấy nghìn năm của các Hoàng đế và các triều đại phong kiến được.
Lời kết
Trải 9 đời dựng nước, với đức dày và ân uy ban bố khắp miền Đàng Trong, dẫu có trải qua chiến loạn Tây Sơn thì ngai vàng cuối cùng vẫn là của nhà Nguyễn vì sự xứng đáng duy nhất của họ. Gia Long lên ngôi đã mở ra thời kỳ trung hưng cho phong kiến Việt Nam sau một thời gian dài nội chiến đen tối. Chưa bao giờ Việt Nam lại toàn vẹn và có lãnh thổ rộng lớn nhường ấy.
Thời phong kiến đã trôi qua nhiều năm và bụi thời gian đã phủ lên hầu hết những vàng son của quá khứ làm cho hậu nhân đôi khi đánh giá không đúng về những gì ông cha đã từng đạt được. Chỉ với đôi bàn tay, khối óc và một lối sống đạo đức chuẩn mực của Thánh hiền mà các vương triều phong kiến đã dẫn dắt dân tộc tiến bước vững chắc mấy ngàn năm.
Dẫu có thăng trầm thành bại nhưng các bậc đế vương đã hết sức cố gắng đảm bảo sự lãnh đạo của mình đạt được tiêu chuẩn cao nhất dẫu là với một vị vua có tư chất thấp nhất. Họ đã làm được điều kỳ diệu đó bằng những kiến thức triết học, khoa học phong thủy huyền diệu.