Vậy mà Minh Mạng đã bị bà Huyện Thanh Quan chê là chữ viết xấu.
Vua Minh Mạng sinh ngày 25 tháng 5 năm 1791, là vị Hoàng đế thứ hai (ở ngôi từ 1820 đến 1841) của vương triều nhà Nguyễn. Trước khi mất, vua Gia Long đã di chiếu cho Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi. Ngày mồng Một tháng Giêng năm Canh Thìn (14-2-1820), Hoàng tử Đảm đã đăng quang, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Nguyễn Phúc Đảm còn có tên gọi khác là Nguyễn Phúc Kiểu và ông là vị vua anh minh nhất của nhà Nguyễn.
Khi ở ngôi, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao. Ông cho lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở kinh đô Huế, bãi bỏ chức tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi các trấn thành tỉnh và củng cố chế độ lưu quan ở khu vực miền núi. Dưới thời ông, quân đội nhà Nguyễn được tổ chức lại, chia thành bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh. Minh Mạng còn cử quan ra chỉ đạo khai hoang ở ven biển Bắc kỳ và Nam kỳ. Là người tinh thông Nho học và sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến việc học tập và củng cố thi cử. Năm 1822 ông mở lại các kì thi Hội, thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài. Cho đến ngày nay vẫn còn lưu truyền giai thoại về vua Minh Mạng với nhân vật nổi tiếng đương thời là bà Huyện Thanh Quan và về một chiếu chỉ của ông.
Chuyện kể lại rằng, bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng có tài thơ Nôm nên được vua Minh Mạng triệu vào Huế làm Cung trung giáo tập, dạy cho các cung phi mỹ nữ. Một hôm nhân dịp chúc mừng một vị quan lớn của triều đình, vua Minh Mạng ban ơn bằng cách viết tặng hai chữ đại tự theo nghệ thuật thư họa. Viết xong, nhà vua đưa cho bà và hỏi: “Được không?”. Ngắm nét chữ “rồng bay phượng múa” của nhà vua, bà Huyện Thanh Quan trả lời: Tâu bệ hạ, phúc tối hậu, thọ tối trường (phúc rất dày, thọ rất dài).
Chợt nghe, vua Minh Mạng chưa hiểu ý của bà Huyện Thanh Quan, nhưng nhìn kỹ lại chữ của mình, vua mỉm cười gật đầu. Té ra nhà vua đã viết chữ Phúc béo tròn và chữ Thọ dài ngoẵng! Bà Huyện Thanh Quan vốn rất đoan trang, đôn hậu, nhưng “phê” nhà vua rất khéo, hóm hỉnh làm vua Minh Mạng cảm thấy thú vị, không giận được.
Giai thoại thứ hai là vào năm 1822, nhân dịp ra Hà thành nhận lễ thọ phong của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), vua Minh Mạng khó chịu khi thấy phụ nữ miền Bắc mặc quần một ống, trông chướng mắt. Nhà vua bèn ra lệnh cấm các cô, các bà Bắc hà không được mặc quần như thế nữa. Quan quân địa phương đốc thúc lính tráng bắt ép phụ nữ phải thực hiện nghiêm lệnh chiếu chỉ của nhà vua. Các ngả đường, chợ búa đều có lính canh phòng quan sát kỹ... Ai đi chợ còn mặc váy thì bị đuổi về. Nhân dân Hà thành vì thế mà không chịu nổi cảnh oái oăm đó nên đã phản kháng một cách hài hước, bằng bài ca dao:
Tháng sáu có chiếu vua ra;
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông;
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang.
Có quần ra đứng bán hàng;
Không quần ra đứng đầu làng trông quan.
Lời bàn:
Tuy sinh ra và lớn lên dưới thời phong kiến và là phụ nữ, nhưng bà Huyện Thanh Quan lại là người nổi tiếng có tài văn chương và chữ nghĩa. Vì làm vua và cũng thực sự là người giỏi về thơ phú nên Minh Mạng đã không ít lần tự cho mình là trí sĩ bậc nhất ở Việt Nam thời đó. Vậy mà Minh Mạng đã bị một người đương thời chê là chữ viết xấu. Hơn nữa, người đó lại là một phụ nữ thì quả là Minh Mạng đã được một bài học rằng “thiên hạ nhân, thiên hạ tài”. Còn ở giai thoại thứ hai thì quả là Minh Mạng một lần nữa đã bộc lộ sự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán của người dân đất Hà thành ngày ấy.
Thế mới hay rằng, bất kỳ thời đại nào, nếu một chính sách không xuất phát từ quyền lợi của dân, không phù hợp với điều kiện sống, trái với thuần phong mỹ tục của dân... tức là không được lòng dân thì chính sách ấy chẳng những sẽ không đi vào cuộc sống, mà ngược lại sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ và thậm chí là sự phản kháng. Và điều này nằm ở câu cuối của bài ca dao: Không quần ra đứng đầu làng trông quan. Mà quan thì lúc nào chẳng đi với vua. Tức là vì vua cấm nên họ không còn gì nữa và đành phải chấp nhận để cho vua coi. Và đây chính là sự phản kháng mạnh mẽ và sâu sắc.